Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

Chính sách biển và Hải quân Việt Nam


Nga đánh giá sức mạnh hải quân Việt Nam hiện nay.

Chiến hạm HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển
Đông Nam Á là một trong những khu vực phát triển năng động nhất trong những năm gần đây. Có thể tự tin nói đến sự xuất hiện một trung tâm địa-chính trị mới của thế giới. Điều đó được quy định bởi sự tập trung tại khu vực này các tuyến giao thương hàng hải chủ chốt, các nguồn tài nguyên, dân số 600 triệu người và tiềm năng xung đột cao.

Tiềm năng xung đột được quy định một mặt bởi sự hiện diện của một số lượng đáng kể các mối đe dọa phi nhà nước (khủng bố quốc tế, cướp biển, buôn bán ma túy) và nội bộ quốc gia (bất ổn chính trị, các xung đột sắc tộc, tôn giáo chưa được giải quyết), mặt khác bởi sự đối kháng giữa các quốc gia, kể cả giữa một số quốc gia trong khu vực, lẫn các cường quốc ngoài khu vực.

Yếu tố chủ chốt của nền chính trị khu vực ở Đông Nam Á là sự gia tăng mạnh vai trò của đại dương thế giới. Eo biển Malacca và Biển Đông ở mức độ đáng kể bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực, nhưng chúng cũng tạo ra phần lớn các nguy cơ đối với an ninh quốc gia và quốc tế. Chính các tuyến đường biển quy định vai trò lớn mà các cường quốc ngoài khu vực là Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ đang có ở đây. Không có gì ngạc nhiên khi các quốc gia trong khu vực đều “đã quay ra hướng biển” và dành sự chú ý ngày càng lớn cho chính sách biển.

Một trong các quốc gia then chốt ở khu vực lấy chính sách biển làm chỗ dựa là Việt Nam. Để phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia của một nước 90 triệu dân, việc phát triển tiềm năng biển nói chung và hải quân nói riêng sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai gần. Hơn nữa, sự phát triển sức mạnh hải quân của Việt Nam đã trở thành yếu tố quan trọng trong “ván cờ lớn” của ba gã khổng lồ Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ.
Hai tàu chiến uy lực nhất của Hải quân Việt Nam hiện nay
HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển


Chính sách biển 
Về truyền thống, Việt Nam xưa nay vốn dĩ vẫn là quốc gia hải quân yếu và sự yếu kém này đã không chỉ một lần ảnh hưởng tai hại đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Thời chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, ưu thế trên biển hiển nhiên đã cho phép Mỹ tự do tiến hành chuyển quân và tấn công bờ biển miền Bắc Việt Nam. Năm 1974, sau một cuộc va chạm nhỏ giữa các tàu chiến của Việt Nam cộng hòa và Trung Quốc, Trung Quốc đã thiết lập quyền kiểm soát đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979, Việt Nam đã thể hiện được sức mạnh của lực lượng vũ trang của mình ở trên bộ và sự yếu kém trên biển, điều đó đã được bù đắp bởi sự hiện diện của một binh đoàn tàu chiến lớn của Liên Xô. Các chiến hạm Liên Xô đã bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển Việt Nam, giao thông vận tải của Việt Nam, cũng như kiềm chế hạm đội Trung Quốc. Các tàu Liên Xô cũng đã đóng vai trò lớn trong việc ngăn chặn Mỹ can thiệp vào cuộc chiến khi Mỹ duy trì sự hiện diện của cụm tàu sân bay do tàu sân bay Constellation dẫn đầu ở gần bờ biển Việt Nam trong 3 tháng.

Một trong những kết quả của cuộc chiến Trung-Việt là việc Hà Nội và Moskva ký kết hiệp định thành lập trạm bảo đảm vật chất-kỹ thuật của Hải quân Liên Xô ở Cam Ranh, căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài. Tuy nhiên, năm 1988, hạm đội Liên Xô đã không thể trợ giúp Việt Nam trong cuộc va chạm mới giữa các tàu chiến Việt Nam và Trung Quốc ở bãi đá Gạc Ma, trong đó Việt Nam lại thất bại và Trung Quốc kiểm soát được một bộ phận các đảo của quần đảo Trường Sa.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã có cách nhìn khác về sự cần thiết phát triển chính sách biển. Tấm gương điển hình đối với Việt Nam là trường hợp Singapore, quốc gia đã từ một mảnh đất nhỏ ở cực nam eo biển Malacca trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về GDP trên đầu người nhờ phát triển hạ tầng cảng biển và thương mại đường biển.

Khác với Singapore, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, Việt Nam có hạ tầng cảng biển cực kỳ yếu. Ba hải cảng lớn nhất của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng thua xa Hongkong, Tanjung Pelepas và Port Klang của Malaysia, Laem Chabang của Thái Lan về doanh thu và chất lượng dịch vụ. Sự tụt hậu này có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam và cản trở việc phát triển khai thác dầu mỏ và các tài nguyên khác.

Năm 1999, Chính phủ Việt Nam đã công bố chương trình 10 năm phát triển hạ tầng cảng biển và nó đã chỉ được thực hiện một phần. Mặc dù vậy, Việt Nam đã tìm được một đồng minh chiến lược là đối tác lâu đời Ấn Độ, quốc gia từ thập niên 1990 đã phát triển học thuyết “Hướng đông” và đang muốn bám trụ ở Đông Nam Á. Mùa thu năm 2011, tập đoàn dầu khí Videsh của Ấn Độ và PetroVietnam của Việt Nam đã ký hợp đồng đối tác 3 năm trong lĩnh vực thăm dò, khai thác các mỏ dầu khí ở Biển Đông.

Việc củng cố quan hệ giữa Hà Nội và New Delhi đã làm cho quan hệ Việt-Trung căng thẳng hơn nữa. Tờ báo China Energy News của Trung Quốc đã đăng bài kêu gọi Ấn Độ và Việt Nam hủy hợp đồng dầu khí này và đe dọa không cho thực hiện hợp đồng,

Mặc dù cả hai nước đều có chung ý thức hệ cộng sản, Trung Quốc vẫn là mối đe dọa chủ yếu đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Sau hơn 30 năm đối đầu, sự căng thẳng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội ở Biển Đông đang gia tăng. Các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khiến cho Việt Nam ngày càng bất bình.

Ấn Độ cảm thấy ngày càng tự tin ở Đông Nam Á và vì Việt Nam họ sẵn sàng chấp nhận sự gia tăng căng thẳng nhất định trong quan hệ với Trung Quốc.

Một đối tác khác của Việt Nam trong cuộc đối đầu với các tham vọng của Trung Quốc trong khu vực là Mỹ. Sau khi Liên Xô tan vỡ, Hà Nội và Washington đã chủ trương vượt qua sự thù địch do chiến tranh để lại. Năm 2000, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã thăm Việt Nam lần đầu tiên sau chiến tranh. Năm 2010 và 2011, Mỹ và Việt Nam đã tiến hành đợt huấn luyện hải quân chung mà lập tức bị giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc gọi là “không phù hợp”. 

Xây dựng hải quân
Ban lãnh đạo Việt Nam nhận thức được rằng, Việt Nam không thể tham gia cuộc chạy đua vũ khí hải quân thực sự với Trung Quốc. Tuy nhiên, kinh nghiệm các cuộc xung đột trước đó cho thấy rằng, để bảo vệ các lợi ích quốc gia của mình, Việt Nam phải có tiềm lực hải quân đủ mạnh. Trong những năm đầu 2000, Hà Nội chủ trương xây dựng một hạm đội ven bờ hiện đại và có khả năng chiến đấu cao. Đối tác chính của Việt Nam trong lĩnh vực này là Nga và ở mức độ thấp hơn là Ấn Độ.

Theo cách tiếp cận của Việt Nam, hạm đội là dùng để bảo vệ lãnh thổ ven bờ và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Việt Nam không cố gắng thiết lập ưu thế trên biển một khi xảy ra xung đột với Trung Quốc, nhưng dự định có được khả năng gây tổn thất đủ lớn cho đối phương và ngăn chặn Trung Quốc thi hành chính sách fait accompli (việc đã rồi). Đây sẽ là yếu tố kiềm chế quan trọng trong quan hệ Trung-Việt.

Ngoài đối phó với Trung Quốc, hạm đội Việt Nam phải có khả năng đối phó với các mối đe dọa trên biển phi truyền thống (buôn lậu, hải tặc, buôn bán ma túy…), cũng như sẵn sàng cho một cuộc xung đột ít có khả năng xảy ra song không thể loại trừ với một nước Đông Nam Á khác.

Theo các nhiệm vụ chính trị và quân sự được giao, Hải quân Việt Nam trong một thời gian dài thực tế chỉ là “hạm đội muỗi” với toàn tàu nhỏ, nay hướng đến thành lập một hạm đội tàu ngầm hùng mạnh, đóng các frigate hạng nhẹ và corvette hiện đại, cũng như các tàu xuồng trang bị pháo-tên lửa.

Tàu ngầm thông thường

Tàu ngầm Projekt 636 Varshavyanka
Dự án lớn nhất mà Việt Nam đang thực hiện trong lĩnh vực xây dựng hải quân là việc mua sắm từ Nga 6 tàu ngầm thông thường Projekt 636 Kilo.

Hợp đồng này được ký năm 2009, trị giá 1, 8 tỷ USD, tàu ngầm đầu tiên đã được khởi đóng tại Admiralteiskye Verfi ở St. Petersburg vào tháng 8/2010.

Nga cũng sẽ hỗ trợ xây dựng căn cứ tàu ngầm và hạ tầng đi kèm tại Việt Nam. Chi phí xây dựng căn cứ ước 1,5-2,1 tỷ USD.

Các tàu ngầm thông thường hiện đại được trang bị tên lửa chống hạm (các tàu ngầm Việt Nam nhiều khả năng sẽ được trang bị hệ thống tên lửa Club-S), là một trong những chủng loại vũ khí trang bị hải quân tối ưu nhất xét từ giác độ hệ số chi phí/hiệu quả.

Khi cần, Việt Nam sẽ có thể bảo đảm sự hiện diện thường xuyên của một số tàu ngầm ở ngoài khơi, điều này sẽ cho phép trong trường hợp xung đột tranh giành ưu thế cục bộ trên biển của Trung Quốc trong một thời gian nhất định.

Ấn Độ với hải quân sở hữu 10 tàu ngầm thông thường do Nga đóng cũng sẽ giúp đỡ Việt Nam khai thác tàu ngầm Nga và đào tạo các thủy thủ đoàn. Cũng cần lưu ý rằng, Hải quân Việt Nam còn có trong biên chế 2 tàu ngầm siêu nhỏ lớp Yugo mua từ CHDCND Triều Tiên vào năm 1997. 

Tàu chiến biển xa 
Thành phần quan trọng thứ hai của hạm đội đổi mới Việt Nam là các tàu chiến lớp corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ. Năm 2011, Nga đã chuyển giao cho Việt Nam 2 tàu hộ vệ lớp Projekt 11661E Gepard 3.9 đóng tại Nhà máy Zelenodolsk mang tên A.M. Gorky theo thiết kế của Viện thiết kế Zelenodolsk (ZPKB). Hợp đồng này trị giá 350 triệu USD được ký vào năm 2006.

Các chiến hạm này trong biên chế Hải quân Việt Nam được đặt tên lửa HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ, có lượng giãn nước 2.100 tấn và tốc độ tối đa đến 27 hải lý/h. Vũ khí chính của tàu là hệ thống tên lửa chống hạm Uran-E với cơ số đạn gồm 8 quả tên lửa chống hạm Kh-35E.
Chiến hạm HQ-011 Đinh Tiên Hoàng
Sau khi nhận được 2 tàu Gepard đầu tiên, Việt Nam đã chuyển điều khoản phụ của hợp đồng thành hợp đồng cứng, đóng thêm 2 tàu loại này. Khác với 2 tàu đầu tiên, các tàu này sẽ có vũ khí chống ngầm mạnh hơn.

Mùa thu năm 2011, có tin Việt Nam đang đàm phán với công ty Damen Schelde Naval Shipbuilding của Hà Lan về khả năng mua sắm 4 chiến hạm lớp SIGMA, loại tàu đang được đóng cho Indonesia và Morocco. Lớp tàu này có một số biến thể với lượng giãn nước từ 1.700-2.400 tấn.
Tàu hộ tống lớp SIGMA
Xét về tính năng và vũ khí, các tàu lớp SIGMA tương đương với Gepard của Nga, nhưng có giá cao hơn: tùy thuộc biến thể cụ thể, Việt Nam sẽ phải trả cho các tàu này 230-400 triệu USD/chiếc. Nếu hợp đồng sẽ được ký kết thì 2 tàu SIGMA đầu tiên dự định đóng ở Hà Lan, 2 tàu còn lại đóng tại Việt Nam.

Nhiều chuyên giá đánh giá khá thấp tiềm lực chiến đấu của các tàu Geparad và SIGMA khi chê trách các hệ thống chống ngầm và phòng không là yếu. Được đánh giá ngược lại lớp tàu corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ là các tàu ngầm thông thường và tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ. Tuy nhiên, các tàu chiến nổi biển xa cũng có hàng loạt ưu thế mà người ta thường không chú ý.
HQ-012 Lý Thái Tổ
Khác với các tàu xuồng tên lửa nhỏ, các tàu như Gepard của Nga có khả năng tiến hành tuần tra khá lâu ở khoảng cách khá xa bờ biển Việt Nam. Có trong tay 4-8 tàu chiến loại này, Việt Nam có khả năng bảo đảm sự hiện diện của 1-3 tàu ở Biển Đông. Kinh nghiệm đụng độ với hạm đội Trung Quốc năm 1974 và 1988 đã cho thấy rằng, các cuộc va chạm hải quân quy mô nhỏ có thể có những hậu quả chính trị lâu dài. Sự hạn chế về thời gian, lực lượng tham gia và tổn thất của cả hai phía của các cuộc đụng độ đó đã cho phép Trung Quốc thực thi thành công chính sách “việc đã rồi” mà không thèm chú ý đến cộng đồng quốc tế.

Việc Việt Nam sở hữu các tàu chiến biển xa hiện đại, được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm uy lực mạnh làm tăng mạnh rủi ro đối với hạm đội Trung Quốc và làm giảm xác suất tiến hành một chiến dịch chóng vánh hiệu quả theo kịch bản năm 1974 và 1988. Hơn nữa, khác với tàu ngầm, các tàu chiến mặt nước là biểu hiện dễ thấy nhất của sức mạnh hải quân của quốc gia.

Các tàu ngầm có khả năng đóng vai trò then chốt trong trường hợp nổ ra xung đột, nhưng không phải là công cụ hiệu quả để ngăn chặn nó. Ta nên nhớ lại cuộc khủng hoảng năm 1977 xung quanh quần đảo Falklands/Malvinas, khi mà sự hiện diện của một tàu ngầm nguyên tử Anh đã không giúp gì nhiều trong việc kiềm chế xung đột và đã không thể ngăn chặn cuộc chiến tranh năm 1982.

Ngoài ra, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, các chiến hạm mặt nước cỡ lớn là công cụ ngoại giao hải quân và phô trương sức mạnh quốc gia, cũng như là biểu tượng dễ thấy của uy thế quốc gia phục vụ tuyên truyền đối nội.

Hiện tại, Hải quân Việt Nam còn sở hữu 5 tàu hộ vệ lạc hậu Projekt 159 (3 tàu 159А và 2 tàu 159АE, HQ-09/11/13/15/17) mà Liên Xô chuyển giao trong thập niên 1960-1970. Các tàu này sắp tới chắc chắn sẽ bị loại khỏi biên chế hạm đội Việt Nam.
Hệ thống tên lửa bờ biển K-300P Bastion-P

Các tàu ven bờ và các hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biểnNền tảng của hạm đội Việt Nam là các tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ do Liên Xô và Nga đóng.

Trong những năm 1990-đầu những năm 2000, Hải quân Việt Nam đã mua của Nga 6 tàu tên lửa Projekt 1241RE (HQ-371-374/377/378), mỗi tàu mang 4 tên lửa chống hạm P-20M. Giá rẻ, khai thác đơn giản và sức mạnh hỏa lực cao của các tàu tên lửa Nga này đã tạo điều kiện cho việc ký kết vào năm 2005 hợp đồng lớn cung cấp 12 tàu tên lửa Projekt 1241.8. Hợp đồng này ước trị giá khoảng 1 tỷ USD.

Hai tàu đầu tiên (HQ-375/336) được đóng tại Nhà máy đóng tàu Vympel ở Rybinsk, Nga và được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2007-2008. Từ năm 2010, Việt Nam đã bắt đầu đóng theo giấy phép một loạt 10 tàu loại này. Projekt 1241.8 có sức mạnh hỏa lực tăng mạnh so với các tàu Projekt 1241RE. Thay cho 4 tên lửa chống hạm P-20, Projekt 1241.8 được lắp 16 tên lửa chống hạm Kh-35.
Tàu tên lửa Molnya Projekt 1241.8 của Hải quân Việt Nam
Các tên lửa chống hạm Kh-35 của Nga là nền tảng tiềm lực chiến đấu của Hải quân Việt Nam. Loại tên lửa dưới âm nhỏ này có tầm bắn 130 km, còn biến thể hiện đại hơn là Kh-35UE có tầm bắn 260 km. Tên lửa chống hạm Kh-35 cho phép tác chiến hiệu quả chống các tàu chiến mặt nước có lượng giãn nước đến 5.000 tấn và các tàu hỗ trợ có lượng giãn nước đến 10.000 tấn của đối phương.

Năm 2004-2008, Tập đoàn Vũ khí tên lửa chiến thuật (KTRV) của Nga đã cung cấp cho Việt Nam 120 quả tên lửa chống hạm Kh-35E. Tháng 10/2010, Nga và Việt Nam đã ký hiệp định liên chính phủ về việc hợp tác phát triển và sản xuất hệ thống tên lửa Uran-EV trang bị tên lửa chống hạm Kh-35EV phục vụ riêng cho nhu cầu của hạm đội Việt Nam.
Bệ phóng tên lửa chống hạm Kh-35E / Uran-E
 trên tàu hộ vệ tên lửa HQ-012 Lý Thái Tổ
Cần lưu ý đến một thành phần quan trọng nữa của Hải quân Việt Nam - đó là  các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P Bastion-P trang bị tên lửa chống hạm siêu âm hạng nặng Yakhont có tầm bắn đến 300 km do Tập đoàn công nghiệp quốc phòng NPO Mashinostroernia phát triển.

Hợp đồng cung cấp 2 hệ thống Bastion-P trị giá gần 300 triệu USD đã được ký vào năm 2005 và hoàn thành vào năm 2010-2011.

Có khả năng đến năm 2015, Nga sẽ bán thêm cho Việt Nam các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động. 
K-300P Bastion-P
Trong thành phần của hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P gồm có 4 xe bệ phóng lắp trên khung gầm xe MZKT-7930 (mỗi bệ phóng mang 2 tên lửa), 1 xe chỉ huy chiến đấu, các xe tiếp đạn. Bản thân các tên lửa được cất giữ trong các ống phóng kín, tạo điều kiện thuận lợi cho khai thác và tăng hạn sử dụng cho tên lửa chống hạm. K-300P có thể được tăng cường hệ thống phát hiện tầm xa ngoài đường chân trời và bám mục tiêu mặt nước Monolit-B triển khai trên bờ biển hoặc hệ thống chỉ thị mục tiêu lắp trên trực thăng.
Các tàu tuần tra và tàu pháo 
Năm 1999-2001, Việt Nam đã tiến hành đóng 2 tàu tuần tra PS-500 (HQ-381/383) theo thiết kế của Viện thiết kế phương Bắc (SPKB) có lượng giãn nước gần 500 tấn. Các tàu lớp này có vũ khí tên lửa và pháo mạnh (tên lửa chống hạm Kh-35, các ụ pháo 76 mm và 30 mm) và có tính năng đi biển cao nhờ 2 ống dẫn tiến phụt nước mạnh và hình dáng thân kiểu chữ V sâu.

Việt Nam đang hoàn tất dự án đóng 6 tàu tuần tra Projekt 10412 Svetlyak do Viện thiết kế hải quân trung ương Almaz của Nga thiết kế. Các tàu nhỏ này có lượng giãn nước gần 400 tấn, dùng để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ bờ biển và  không được trang bị vũ khí tên lửa mạnh. Hai tàu đầu tiên (HQ-261/263)đã đóng xong năm 2002, 2 chiếc tiếp theo (HQ-264/265) hoàn thành vào năm 2011. Cặp tàu thứ ba đang đóng hoàn thiện tại Vladivostok, Nga và sẽ được chuyển giao cho Việt Nam trong năm 2012. Chi phí đóng 6 tàu này là gần 110 triệu USD
Hai tàu tuần tra lớp Projekt 10412 mang số hiệu nhà máy 044, 045 tại Nga trước khi bàn giao cho Việt Nam ngày 20.10.2011
Tháng 1/2012, Hải quân Việt Nam được chuyển giao tàu pháo đầu tiên lớpTT400TP là HQ-272. Tàu này có lượng giãn nước gần 400 tấn, được trang bị 1 ụ pháo 76mm và 1 ụ pháo 30 mm. Tàu này do Nhà máy đóng tàu Z-173 thuộc Công ty đóng tàu Hồng Hà ở Hải phóng tự thiết kế. Dự kiến, Việt Nam sẽ đóng thêm ít nhất 2 tàu loại này. Tàu này được thiết kế dựa trên các thiết kế PS-500 và Projekt 10412 của Nga. 
Tàu HQ-272 thử nghiệm trên biển
Năm 1979-1983, Hải quân Việt Nam đã nhận được 8 tàu tên lửa Projekt 205 (lượng giãn nước gần 200 tấn, vũ khí gồm 4 tên lửa chống hạm P-15 và 2 ụ pháo 30 mm) và 16 tàu phóng lôi Projekt 206 (lượng giãn nước gần 150 tấn, vũ khí gồm 4 ống phóng lôi 533 mm và 2 ụ pháo 30 mm). Các tàu này sẽ được loại khỏi biên chế.

Không quân hải quân
Nền tảng không quân hải quân của Hải quân Việt Nam là các trực thăng đa năng Ка-28 của Nga, dùng để triển khai trên các tàu hộ vệ Projekt 11661E Gepard 3.9. Chức năng chính của các trực thăng này là chống ngầm, ngoài ra còn có biến thể trực thăng radar phát hiện tầm xa Ка-31.

Năm 2010, Việt Nam đã ký với Công ty Viking Air của Canada hợp đồng mua 6 máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter. Các máy bay này sẽ được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2012-2014. Hợp đồng có trị giá ước 30-40 triệu USD. Các máy bay này sẽ là thành phần quan trọng của hệ thống nắm bắt thông tin tình hình tại các vùng biển ven bờ của Việt Nam. 
Máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter Series 400
Ngoài các chiến hạm thuộc các lớp cơ bản, Việt Nam còn sở hữu một đội tàu hỗ trợ, xuồng tuần tra  và tàu quét lôi mà việc đánh giá chúng chưa được thực hiện ở đây.

Như vậy, Hải quân Việt Nam đang trong tình trạng phát triển mạnh mẽ và quá độ từ một hạm đội ven bờ lạc hậu, không có khả năng bảo vệ thích đáng ngay cả vùng biển chủ quyền sang một hạm đội khu vực không lớn, nhưng hiện đại và đủ mạnh. Vào cuối thập kỷ này, Hà Nội dự định xây dựng được một hạm đội mà bản thân sự hiện diện của nó sẽ buộc Bắc Kinh kiềm chế, từ bỏ những mưu toan thiết lập thiết lập quyền kiểm soát đối với Biển Đông bằng vũ lực.
  • Nguồn: Sát nách con rồng / Prokhor Yurevich Tebin, nghiên cứu sinh Viện Kinh tế thế giới và Quan hệ quốc tế, Viện Hàn lâm khoa học Nga // NVO, 20.4.2012.
LAST UPDATED ( 12:44 PM, 20/04/2012)

Thế kẹt trước Trung Quốc: Bản lĩnh và sự khôn khéo của Việt Nam


Sự đi xuống của Mỹ trong vai trò "siêu cường duy nhất" của thế giới cùng việc Trung Quốc nổi lên nhanh chóng như là cường quốc nổi trội ở khu vực Đông Á đã tạo ra một thế khó cho Việt Nam. Nối lại quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN là những biểu hiện của sự khéo léo về ngoại giao của Việt Nam. 
Mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc là một phép thử về thách thức chiến lược mà Việt Nam phải đối mặt trên nền tảng lịch sử lâu dài. Việc nối lại quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN là những biểu hiện của sự khéo léo về ngoại giao của Việt Nam. Sự đi xuống của Mỹ trong vai trò "siêu cường duy nhất" của thế giới và sự nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc với vai trò là cường quốc nổi trội ở khu vực Đông Á đã tạo ra một thế khó cho Việt Nam. Sự nổi lên của Trung Quốc tạo ra một mối đe dọa tiềm tàng, trong khi sự chuyển hướng chiến lược của Mỹ tới châu Á có thể đem lại cho Việt Nam một giải pháp. Trong khi mối thách thức của Trung Quốc đã thử thách sự nhạy bén chiến lược của các quan chức ở Hà Nội, thì đối sách của Việt Nam thể hiện ở nhiều mặt và có vẻ như tuân theo 9 định hướng lớn. Thứ nhất là thông qua các kênh giữa hai Đảng để cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thành tựu nổi bật của nỗ lực này là việc giải quyết tranh chấp biên giới trên bộ và gần như toàn bộ Vịnh Bắc Bộ - nhưng không phải là Biển Đông. Thứ hai là xây dựng sức mạnh của Việt Nam bằng việc cải cách và mở cửa nền kinh tế - còn gọi là Đổi Mới - và nâng cấp các lực lượng vũ trang với trọng tâm là khả năng chống tiếp cận trên biển. Thứ ba là gia nhập và liên kết với ASEAN để làm cho bất cứ mối đe dọa nào đối với Việt Nam ngày càng được coi là một mối đe dọa với tất cả. Thứ tư là sử dụng mọi cơ hội thông qua sự hiện diện chính thức, các tuyên bố công khai, các cuộc tập trận quân sự, và "sự thật trên thực địa" để khẳng định "quyền chủ quyền" của Việt Nam trên Biển Đông. Thứ năm là tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán nhằm giảm bớt các tranh chấp lãnh thổ giữa các nước ASEAN trên Biển Đông để tạo ra một mặt trận thống nhất trước Trung Quốc. Thứ sáu là lôi kéo các công ty dầu lửa quốc tế (trong đó có Ấn Độ) vào Biển Đông bằng việc đưa ra các điều khoản hấp dẫn trong các hợp đồng. Thứ bảy là phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với Nhật Bản và nâng cấp quan hệ quân sự với Nga và Ấn Độ - trong đó có khả năng cho hải quân tiếp cận với Cảng Cam Ranh. Thứ tám là thông báo cho Bắc Kinh thường xuyên và công khai rằng Việt Nam "không bao giờ có thể chấp nhận" các tuyên bố về biển của Trung Quốc. Cuối cùng là phát triển một mối quan hệ ngày càng gần hơn với Mỹ, cả về kinh tế, ngoại giao và quân sự. Sự phát triển của quan hệ quân sự với Mỹ là đặc biệt đáng chú ý. Bắt đầu bằng sự hợp tác thận trọng trong việc giải quyết vấn đề MIA/POW (người Mỹ mất tích trong chiến tranh và tù binh chiến tranh) trong những năm 1980, các mối liên lạc quân sự với quân sự bắt đầu từ giữa những năm 1990. Quan hệ này mở rộng nhanh chóng với các chuyến thăm cảng của tàu hải quân Mỹ, một diễn đàn "đối thoại chiến lược" giữa giới quân sự hai nước, và việc các quan chức cao cấp Việt Nam thường xuyên nhắc tới một "quan hệ đối tác chiến lược". Động cơ không nói ra nhưng không thể nhầm lẫn được cho là mấu chốt của mối quan hệ này là sự quan ngại chung về Trung Quốc.

Môi trường chiến lược của Việt Nam

Sức mạnh đang tăng của Trung Quốc tạo ra một môi trường chiến lược rất bất cân xứng cho Việt Nam. Ngày nay không có sự lặp lại thành công về quân sự giống như Việt Nam đã thực hiện vào năm 1979 trước Trung Quốc. Nếu Trung Quốc quyết tâm - chẳng hạn như không cho ngư dân Việt Nam vào các vùng biển ở Biển Đông - có lẽ Việt Nam không thể làm gì được. Tuy nhiên, các xu hướng rõ rệt trong khu vực lại đang có lợi cho Việt Nam. Thứ nhất là sự điều chỉnh trọng tâm chiến lược của Mỹ tới Đông Nam Á và Biển Đông. Hà Nội biết rõ rằng sức mạnh quân sự của Mỹ cuối cùng sẽ là đối trọng hiệu quả duy nhất cho sự mạnh bạo ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Thứ hai là sự bất an rõ rệt và ngày càng tăng tại Đông Nam Á trước các ý đồ của Trung Quốc. Kết quả là chính phủ các nước ASEAN ngày càng sẵn sàng thể hiện mối quan ngại của họ với Bắc Kinh. Trung Quốc từ lâu đã cố gắng giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông với Đông Nam Á trong phạm vi song phương và tránh gây chú ý. Việt Nam thì cố gắng theo hướng ngược lại - quốc tế hóa và công khai hóa. Trong vấn đề cụ thể này, lợi thế thuộc về Việt Nam chứ không phải Trung Quốc. Về mặt lịch sử, mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là một bản hùng ca đấu tranh để giành lấy và gìn giữ độc lập dân tộc khỏi sự kiểm soát của Trung Quốc. So với điều này, các cuộc chiến tranh gần đây chống lại sự can thiệp của Pháp và Mỹ sẽ là thứ yếu. Gần một nghìn năm trước, nhân dân Việt Nam đã giành được độc lập với Trung Quốc và duy trì nó (với cái giá không hề rẻ) kể từ đó. Từ khía cạnh này, thời kì cai trị thuộc địa của Pháp, Chiến tranh thế giới thứ Hai và Chiến tranh Lạnh chỉ là những sai số của lịch sử. Trong thời kỳ này, mối oán thù Trung - Việt được hóa giải nhờ vào các mối đe dọa và nhu cầu nổi trội. Trong "Chiến tranh chống Mỹ", Bắc Kinh và Hà Nội trở thành đồng minh của nhau. Nhưng mối quan hệ đó nhanh chóng đổ vỡ sau năm 1975 khi một Việt Nam chiến thắng và thống nhất đã đứng về phía Mátxcơva và chống lại Bắc Kinh trong cuộc đối đầu Xô-Trung. Câu chuyện lên đến đỉnh điểm vào năm 1979 khi Trung Quốc phản ứng trước việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia (do các cuộc tấn công của Khơme Đỏ vào các làng mạc của Việt Nam) bằng việc cử 30 sư đoàn vượt qua biên giới Việt Nam để thực hiện cái gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học".

Cuộc chơi mới của Việt Nam

Bài học lớn nhất rút ra là việc Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã không tác chiến tốt theo các tiêu chuẩn quân sự hiện đại. Sự độc lập của Việt Nam được giữ nguyên vẹn. Trong hai thập kỷ kế tiếp, mối quan hệ Trung - Việt bước vào giai đoạn lắng dịu về chiến lược. Cả hai nước đều tập trung vào nhiệm vụ lớn là tái thiết kinh tế và phát triển. Sự sụp đổ của Liên Xô vào đầu những năm 1990 là điều gây bất an cho cả hai nước. Đối với Hà Nội, điều này đồng nghĩa với việc mất đi một nguồn bảo trợ quan trọng về an ninh và kinh tế. Nó cũng đánh dấu sự khởi đầu của một bối cảnh chiến lược hoàn toàn mới, với hai đặc điểm nổi bật là vị trí số một của Mỹ trong vai trò "siêu cường duy nhất" và sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực mà Việt Nam có lợi ích. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN và vị thế ngày càng tăng trong tổ chức này là bằng chứng về khả năng của Hà Nội trong việc tạo một lối đi giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự gần gũi ngày càng tăng của Hà Nội với Oasinhtơn, là biểu hiện quan trọng nhất cho sự khéo léo của Hà Nội trong việc giải quyết thế kẹt về chiến lược./.

Giáo sư Marvin Ott là chuyên gia về Đông Nam Á tại Trung tâm Woodrow Wilson, Mỹ


Theo NCBĐ

Thứ Hai, 9 tháng 4, 2012

Trung Quốc chuẩn bị 'đánh úp' biển Đông?


Bài đăng trên báo Đất Việt

Trung Quốc đang thay đổi thay đổi cách tiếp cận, tỏ ra mềm mỏng linh hoạt hơn
 trong các vấn đề tranh chấp lãnh hải tại biển Đông? Ảnh minh họa: China Daily.

Những sự kiện tranh cãi gần đây tại biển Đông và biển Hoa Đông giữa Trung Quốc và các láng giềng cho thấy Bắc Kinh “chứng nào tật ấy”, không bao giờ ngừng các hành động khiêu khích, thậm chí, có khả năng họ triển khai các cuộc tấn công bất thình lình trong các vùng lãnh hải tranh chấp.


Lùi một bước để tiến ba bước?


Các tranh chấp lãnh thổ gay gắt giữa Trung Quốc và các láng giềng ở biển Đông và Hoa Đông từ lâu trở thành chủ đề nóng và thu hút sự chú ý không nhỏ từ công chúng. Gần như tất cả các quốc gia trong khu vực và con rồng châu Á đều có những “vụ lùm xùm, ầm ĩ” liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, từ Hàn Quốc và Nhật Bản cho tới Philippines và Việt Nam.


Muốn ổn định nội, ngoại để chuyển giao thế hệ lãnh đạo diễn ra suôn sẻ đồng thời, tống khứ Mỹ khỏi châu Á – Thái Bình Dương và xóa bỏ hình ảnh “xấu xí” của mình đối với các quốc gia trong khu vực, Trung Quốc tỏ ra mềm mỏng, linh hoạt hơn trong các vấn đề tranh chấp lãnh hải trong khu vực.


Một bài bình luận mới đây đăng trên Tạp chí Foreign Affairs của Mỹ nhận xét, Trung Quốc đang trở nên ôn hòa hơn, mềm dẻo và linh hoạt hơn trong các vấn đề liên quan đến biển Đông.


Sự thay đổi phương pháp tiếp cận của Bắc Kinh đến từ tháng 6 năm ngoái, được đánh dấu bởi sự kiện Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn của Việt Nam với tư cách là Đặc phái viên của Chính phủ Việt Nam sang Trung Quốc để hội đàm về các vấn đề tranh chấp lãnh hải giữa hai nước. 


Ngay sau đó, Trung Quốc và mười thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đàm phán thành công và bàn việc triển khai Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), liên quan  trực tiếp đến các tranh chấp lãnh hải ở biển Đông ứng xử một cách hợp lý dựa trên các nguyên tắc và luật lệ quốc tế hồi tháng 7/2011.


Đồng thời, đầu năm nay, Trung Quốc cũng có ý định triệu tập các hội thảo về hải dương học và tự do hàng hải ở biển Đông và muốn đối thoại với các quan chức cao cấp ASEAN để thảo luận về việc thực hiện Tuyên bố về ứng xử biển Đông năm 2002. 


Đáng chú ý là, các quan chức cấp cao hàng đầu của Trung Quốc - Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo - từng nhiều lần đề cập đến việc thực thi Bộ nguyên tắc chỉ đạo giải quyết các xung đột lãnh hải của Trung Quốc của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình. Theo đó, các bên liên quan trực tiếp đến tranh chấp lãnh hải trên biển Đông gác lại những yêu sách chủ quyền của mình và cùng khai thác nguồn tài nguyên hàng hải.


Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc vẫn chứng nào tật ấy. Chỉ tính riêng tháng ba vừa qua, xảy ra hàng loạt các sự cố liên quan đế tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các quốc gia trong khu vực. Như tranh cãi nảy lửa giữa Bắc Kinh và Seoul liên quan đến bãi đá ngầm Iedo dẫn đến việc Hàn Quốc tuyên bố xây dựng nhiều căn cứ hải quân mới trên đảo Baeknyeong và Heuksan để đối phó với các hoạt động xâm nhập trái phép của tàu cá Trung Quốc. 


Bắc Kinh cũng đụng độ với Manlila liên quan đến kế hoạch xây cầu cảng nhằm "phát triển du lịch" ở đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa và tranh cãi với Hà Nội liên quan đến các động thái thăm dò dầu khí của Việt Nam và các đối tác – các tập đoàn dầu khí quốc tế - ngoài khơi xung quanh vùng lãnh hãi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. 


Thậm chí, tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc không chỉ dừng lại như là cuộc chiến ngôn từ. Trung Quốc không ít lần bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam một cách trái phép, chẳng hạn, vụ hai tàu cá cùng 21 ngư dân Việt Nam thuộc huyện đảo Lý Sơn bị Trung Quốc bắt vào ngày 3/3 vừa qua tại vùng biển Hoàng Sa và bị giam giữ từ đó đến nay.


Ầm thầm chuẩn bị tấn công bất thình lình?


Theo các báo cáo thăm dò và khảo sát của phương Tây và các quốc gia trong khu vực, Tây Thái Bình Dương chứa trữ lượng dầu và khí đốt vô tận. Trữ lượng tài nguyên ở khu vực này, trong các báo cáo thăm dò của Trung Quốc thậm chí, luôn cao hơn bất cứ báo cáo nào khác. Do đó, Bắc Kinh cho rằng nếu có thể kiểm soát được khu vực này, họ sẽ không phải đau đầu bận tâm về việc làm thế nào để thỏa mãn cơn thèm năng lượng của nền kinh tế, và do đó, vấn đề an ninh năng lượng sẽ được đảm bảo. Theo ước tính của Trung Quốc, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên ở Tây Thái Bình Dương có thể đủ cho Trung Quốc “dùng xả láng” trong hơn 60 năm.


Với khoản tiền “khủng” theo các tuyên bố chính thức là 100 tỷ USD cho chi tiêu quốc phòng năm 2012 (nhiều nhà phân tích khẳng định con số thực còn cao hơn rất nhiều), Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đang nỗ lực gia tăng sức mạnh và các khả năng cần thiết để các yêu sách liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ trong khu vực và vấn đề an ninh năng lượng của Trung Quốc được đảm bảo và được tôn trọng.


Các thành tựu đáng kể trong công cuộc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc được thể hiện thông qua các tên lửa đạn đạo chống hạm mới – có khả năng buộc Mỹ phải suy nghĩ thận trọng trước khi quyết định đưa lực lượng vào giải cứu các đồng minh trong khu vực trong trường hợp một cuộc chiến giữa Trung Quốc và họ bùng lên.


Ngoài ra, Trung Quốc cũng không tiếc tiền của đầu tư mở rộng kho máy bay chiến thuật mặt đất và các tên lửa hành trình có cánh đối hạm chưa kể lực lượng tàu chiến và tàu ngầm hạt nhân cũng được chú trọng phát triển.


Không thể không kể đến sự gia tăng nhanh chóng của lực lượng tàu khu trục hải quân tàu đổ bộ mới cũng như các trực thăng mẫu hạm có khả năng chở hàng nghìn hải quân Trung Quốc nhanh chóng đổ bộ tới các hòn đảo tranh chấp.


Không dừng lại ở đó, nếu không có gì thay đổi, tháng 8 năm nay, Bắc Kinh sẽ đưa tàu sân bay đầu tiên mang tên Thi Lang vào hoạt động – gia tăng đáng kể sức mạnh hải quân của Trung Quốc.


Trong khi đó, hàng loạt các bài bình luận trên các phương tiện truyền thông chính thống của Trung Quốc, đáng chú ý nhất là tờ Global Times – cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, khái niệm về “các cuộc chiến quy mô nhỏ” gia tăng kể tăng kể từ năm 2011. 


Đáng chú ý, đầu tháng ba vừa qua, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tuyên bố quân đội Trung Quốc cần chuẩn bị tốt hơn cho các "cuộc chiến tranh cục bộ".


Từ những dấu hiệu trên, hàng loạt các chuyên gia trong một bài phỏng vấn với Asia Times nhấn mạnh rằng tương lai, Trung Quốc có thể phát động các cuộc tấn công quân sự giới hạn.


Theo Steve Tsang, Giám đốc Viện chính sách Trung Quốc thuộc ĐH Nottingham, tin rằng Trung Quốc có thể khởi động một cuộc chiến bất thình lình và quy mô nhỏ nhằm vào Philippines và Việt Nam.


“Khởi động cuộc chiến chống lại Việt Nam chỉ làm an ninh ở Đông Nam Á và Đông Á bất ổn hơn. Trung Quốc không dễ chiến thắng Việt Nam. Dù vậy, họ rất có thể phát động một cuộc chiến như thế”, ông Steve Tsang nhấn mạnh. 


Ông Tsang cảnh báo, tấn công Việt Nam hoặc Philippines sẽ đẩy các quốc gia ASEAN đến chỗ phải tìm đến Mỹ cầu viện.


Tuy nhiên, ông Tsang nhấn mạnh, Hàn Quốc sẽ không phải là mục tiêu bất chấp các cuộc chiến ngôn từ gần đây với Trung Quốc sau vụ một quan chức Viện Hải Dương học nước này tuyên bố bãi đá ngầm Ieodo chắc chắn là một phần lãnh hải thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. 


“Việc Trung Quốc tính chuyện triển khai hoạt động quân sự chống lại Hàn Quốc là quá nguy hiểm và không được bất cứ ai khoan dung. Mỹ có vai trò rất lớn ở đây và sẽ ngay lập tức gây áp lực lên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc để ra một lệnh ngừng bắn”, ông Tsang tuyên bố thêm.


Trong khi đó, James Holmes, một Phó Giáo sư nghiên cứu Chiến lược của Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ nhận định Bắc Kinh có thể sẽ thành công nếu tấn công Philippines.


“Bắc Kinh sẽ khởi động bất cứ cuộc chiến tranh quy mô nhỏ nào khi có thể. Sức mạnh quân sự vượt trội của họ dựa trên các loạt vũ khí như tên lửa đạn đạo chống hạm sẽ mang lại ưu thế cho Trung Quốc trong suốt cuộc chiến”, ông Holmes giải thích.


Như vậy, rất có thể trong tương lai, biển Đông sẽ lại dậy sóng bởi các cuộc tấn công bất thình lình và quy mô nhỏ của Trung Quốc.
Bạch Dương (Tổng hợp)

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

Chuyên gia Hoa kiều so sánh Su-27/30 của VN và TQ


Cùng chủng loại, giống nhau cơ bản về tính năng nhưng Su-27/30 của Việt Nam chỉ tập trung sức mạnh vào một số nhiệm vụ chứ không đa dạng như nguyên bản.
Trên đây là nhận định của ông Andrei Chang, một chuyên gia quân sự gốc Hoa mang quốc tịch Canada. Ông là một cây bút kỳ cựu của Tạp chí quân sự Khán Hòa có trụ sở tại Canada, từng có nhiều bài viết về dòng máy bay Sukhoi có trong biên chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc của ông Andrei Chang:
Trong biên chế Không quân Việt Nam có khoảng 12 chiếc Su-27SK và 4 chiếc Su-27UBK, Trung Quốc có khoảng 78 chiếc Su-27SK nhập khẩu trực tiếp từ Nga và không có chiếc Su-27UBK nào. 

Đối với biến thể Su-30, Trung Quốc có trong biên chế khoảng 76 chiếc Su-30MKK, một biến thể Su-30MK phát triển riêng, ngoài ra, không quân hải quân nước này còn sở hữu 24 chiếc Su-30MK2. 

Tính đến năm 2012, Không quân Việt Nam sẽ có khoảng 32 chiếc Su-30MK2, biến thể được thiết kế cho nhiệm vụ đánh biển. Xét ở tiêu chí số lượng, Không quân Trung Quốc đang có sự áp đảo, tuy nhiên, ông Andrei Chang nhận định lợi thế không hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.

Cùng chủng loại, giống nhau cơ bản về tính năng nhưng có sự khác biệt đáng kể trong trang bị vũ khí giữa các tiêm kích Su-30MK2 của Việt Nam và Trung Quốc.
Các hợp đồng mua sắm tiêm kích dòng Su-27/30 giữa Trung Quốc và Việt Nam với Nga có khá nhiều điểm khác nhau, đầu tiên là phương thức thanh toán, sau đó là một số khác biệt trong thiết kế.

Trong khi Trung Quốc gần như phải thanh toán 100% cho các hợp đồng mua máy bay bằng USD, các hợp đồng với Việt Nam lại hoàn toàn ngược lại. Theo đó, hợp đồng mua 4 chiếc Su-30MK2 đầu tiên của Việt Nam trị giá 110 triệu USD, trong đó 70% giá trị hợp đồng được thanh toán bằng hình thức trao đổi hàng hóa, Việt Nam chỉ phải trả 30% giá trị bằng ngoại tệ.

Tuy nhiên, đó chưa phải là điều quan trọng nhất, 4 chiếc Su-30MK2V được chuyển giao cho phía Việt Nam là một biến thể tương tự Su-30MKK của Trung Quốc nhưng các máy bay này lại được thiết kế cho nhiệm vụ chiếm ưu thế trên không, phần mềm tấn công của 4 máy bay này không được cài đặt mang tên lửa chống hạm.

Hy sinh khả năng đa nhiệm, tập trung vào nhiệm vụ chiếm ưu thế trên không sẽ tạo nhiều lợi thế cho Việt Nam trước một cuộc tập kích đường không nếu có.
Theo một nguồn tin chưa được xác nhận từ Nga, Việt Nam đã hy sinh khả năng đa nhiệm của Su-27SK mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ không đối không nhằm tạo nên lợi thế trước lực lượng không quân hùng hậu của đối phương.

Do chỉ tập trung vào nhiệm vụ chiếm ưu thế trên không, hoặc không đối hải chứ không hoàn toàn đa dạng như nguyên bản, các máy bay Su-27, Su-30MK2 của Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế hơn, ông Chang nhận định. 

Ông Chang lưu ý thêm, trong biên chế Không quân Việt Nam có hai chiếc Su-27PU được nhận trực tiếp từ Không quân Nga (bồi thường cho 2 chiếc Su-27SK bị rơi trên đường vận chuyển đến Việt Nam). Hai chiếc này chắc chắn có nhiều khác biệt so với các biến thể xuất khẩu.

Đến năm 2008, Việt Nam tiếp tục đặt hàng thêm 6 chiếc Su-30MK2V vào năm 2008, năm 2009 tiếp tục đặt hàng thêm 8 chiếc và đợt đặt hàng lớn nhất gần đây là 12 vào năm 2010. Tất cả các hợp đồng nói trên dự kiến sẽ chuyển giao đầy đủ cho Việt Nam vào năm 2012.

Những cải tiến nhỏ trong Su-30MK2 của Việt Nam là gì đang thu hút sự chú ý đặc biệt từ các chuyên gia quân sự nước ngoài.
Vấn đề được ông Chang lưu tâm là có sự khác biệt lớn nào giữa các máy bay Su-30MK2 của Việt Nam và Trung Quốc hay không?

Nguồn tin công nghiệp hàng không Nga chỉ tiết lộ, Su-30MK2 của Việt Nam chỉ có vài “cải tiến nhỏ”, vậy cải tiến nhỏ ở đây là những gì? 

Ông Chang cho rằng, những cải tiến nhỏ có thể cho phép máy bay Su-30MK2 của Việt Nam mang nhiều vũ khí hiện đại hơn so với Su-30MK2 của Trung Quốc, nhiệm vụ của các máy bay này là tập trung cho không đối hải.

Theo ông Chang, đường lối quân sự của Việt Nam chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ ngăn chặn và phòng ngự. Một cuộc tấn công quân sự nhắm vào Việt Nam sẽ chỉ đến từ đường không hoặc đường biển, tập trung sức mạnh của các tiêm kích vào hai nhiệm vụ chính nói trên sẽ cho phép Việt Nam xây dựng một thế trận phòng ngự hiệu quả.

Với một lực lượng không quân nhỏ, ngay cả khi số lượng máy bay chiến đấu tiên tiến khá ít ỏi, nhưng nếu sử dụng đúng cách vẫn tạo ra một hiệu quả chiến đấu mạnh mẽ, đặc biệt nếu các máy bay này có khả năng tích hợp các hệ thống vũ khí hiện đại, ông Chang bình luận.

Ông Chang nhận định thêm, xét về đơn giá, Việt Nam đã mua máy bay Su-27SK với giá khoảng 31,5 triệu USD/chiếc. Đơn giá này cao hơn khoảng 3 triệu USD so với giá bán cho các quốc gia khác. Điều này có thể nhận định rằng các máy bay này có nhiều thiết bị hiện đại hơn mặc dù buồng lái vẫn theo kiểu những năm 1980.

Có sự khác biệt khá lớn về nguồn gốc các vũ khí trang bị cho Su-27/30 của Việt Nam và Trung Quốc, trong ảnh một tên lửa hành trình đối đất Kh-29T đang được gắn lên cánh Su-27SK của Không quân Việt Nam.
Đối với máy bay Su-30MK2, sau khi thực hiện đầy đủ các hợp đồng, Việt Nam là quốc gia có nhiều máy bay Sukhoi nhất ở Đông Nam Á và đứng thứ 3 ở khu vực châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ. 

Sukhoi đã quyết định thành lập một trung tâm các máy bay Sukhoi tại Việt Nam để tiện cho việc bảo dưỡng cho Không quân Việt Nam và cả khu vực. (Thông tin này vẫn chưa được kiểm chứng vì theo một số nguồn tin, trung tâm nói trên đặt tại Malaysia, (>> chi tiết)

Trong khi đó, các máy bay Su-27SK, Su-30MK2 của Trung Quốc phải thực hiện các hoạt động bảo dưỡng gián tiếp qua Ukraine (do sao chép bất hợp pháp Su-27 để chế tạo J-11). Tương lai Trung Quốc phải tự bảo dưỡng các máy bay của mình, ngay cả những hoạt động sửa chữa lớn đều phải tự thực hiện.

Bên cạnh đó, sự thay đổi trong tương lai của các máy bay Su-27, Su-30MK2 của Việt Nam chủ yếu đến từ hệ thống vũ khí. 

Các máy bay Su-30MK2 của Việt Nam và Trung Quốc đều có khả năng mang tên lửa chống tàu Kh-31A, tên lửa hành trình không đối đất Kh-29TE tầm bắn 30km. Về vũ khí không đối không, cả hai bên đều được trang bị tên lửa không đối không tầm ngắn R-73, tên lửa không đối không tầm trung R-27. Trong khi Trung Quốc phải nhập khẩu tên lửa R-27T/R từ Ukraine thì Việt Nam lại được nhập khẩu các tên lửa này trực tiếp từ Nga. Loại tên lửa không đối không tầm trung hiện đại R-77 không được Nga bán cho cả hai bên.

Kết thúc bài viết của mình, ông Chang kết luận, lợi thế về số lượng đang nằm trong tay Trung Quốc nhưng lợi thế về sự đa dạng trong lựa chọn vũ khí hiện đại lại thuộc về Việt Nam.

Chỉ tập trung sức mạnh vào nhiệm vụ không đối không hoặc không đối hải có vẽ lỗi thời với xu hướng đa nhiệm của thế giới nhưng xét trên đường lối quân sự và những đối thủ tiềm tàng của Việt Nam thì đây là một lối đi hết sức đúng đắn, cho phép một số lượng máy bay khiêm tốn có thể bẽ gãy các đợt tấn công bằng đường không hay đường biển của đối phương. 
Theo Đất Việt Online

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2012

Việc đưa Hoàng Sa ra trọng tài quốc tế


Dương Danh Huy


Những sự kiện gần đây nói rõ lên sự nhức nhối của vấn đề Hoàng Sa đối với Việt Nam.
Ngày 30/3/2012, Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối chính quyền tỉnh Hải Nam tổ chức cuộc đua thuyền buồm “Cúp Ty Nam” xuất phát từ Tam Á đến quần đảo Hoàng Sa.

Tranh chấp lãnh thổ

Ngày 21/3/2012 Việt Nam đòi Trung Quốc thả vô điều kiện 21 ngư dân Việt Nam mà Trung Quốc đã bắt tại khu vực Hoàng Sa.
Ngày 15/3/2012 Việt Nam phản đối các hoạt động của Trung Quốc ở Hoàng Sa, bao gồm đấu thầu các lô dầu khí, thao dượt bắn đạn thật, và các hoạt động du lịch, văn hóa và thể thao.


Nan giải

Tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa-Biển Đông vốn đã là nan giải cho Việt Nam, nhưng trong các tranh chấp đó, tranh chấp Hoàng Sa là nan giải nhất. Thứ nhất, Trung Quốc đang chiếm đóng hoàn toàn Hoàng Sa. Thứ nhì, Trung Quốc không chịu công nhận rằng tồn tại tranh chấp chủ quyền trên quần đảo này. Thứ ba, trong tranh chấp với Trung Quốc về Hoàng Sa, Việt Nam hoàn toàn đơn độc.
Tranh chấp Hoàng Sa, không những đã là nan giải nhất, lại còn giữ chìa khóa cho một số tranh chấp khác ở Biển Đông.
Ở phía Bắc Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc đang trong quá trình đàm phán phân định khu vực ngoài của vịnh Bắc Bộ. Cùng lắm hai bên chỉ có thể phân định một phần khu vực này, trước khi đường phân định tiến đến gần quần đảo Hoàng Sa, khi quan điểm đối kháng của hai bên về quần đảo này sẽ làm cho không thể tiếp túc việc phân định biển. Như vậy, tranh chấp Hoàng Sa sẽ làm bế tắc việc phân chia biển từ phía Bắc Biển Đông.
Ở phía Nam Biển Đông, một trong những giải pháp có hứa hẹn cho việc quản lý tranh chấp là xác định phạm vi vùng biển thuộc tranh chấp Trường Sa. Bên ngoài vùng tranh chấp đó sẽ dứt khoát thuộc về Việt Nam hoặc Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines. Bên trong vùng tranh chấp thì các nước trong tranh chấp sẽ phải tìm một giải pháp tạm thời nào đó để quản lý tranh chấp cho đến khi tranh chấp Trường Sa được giải quyết hoàn toàn.
Bất kể mỗi người chúng ta có quan điểm thế nào về giải pháp khai thác chung vùng tranh chấp Trường Sa đi nữa, điều không thể chối cãi được là nếu Trung Quốc được khai thác chung vùng Trường Sa trong khi không chấp nhận cho Việt Nam khai thác chung vùng Hoàng Sa thì điều đó sẽ là vô cùng cay đắng cho Việt Nam.

Gạt khỏi đàm phán?


Với thế mạnh của Trung Quốc, khả năng là trong tương lai họ sẽ đòi hỏi gạt Hoàng Sa ra khỏi đàm phán với ASEAN bằng cách đề cập đến Trường Sa một cách cụ thể nhưng không đề cập đến Hoàng Sa. Và khả năng là các nước ASEAN kia sẽ không ủng hộ Việt Nam trong việc chống lại đòi hỏi đó, có nghĩa Việt Nam sẽ ngày càng cô độc trên bàn đàm phán trong vấn đề Hoàng Sa.
 Việt Nam cần những biện pháp khác hơn là chỉ phản đối 'chay'?
Tranh chấp Hoàng Sa cũng không phải là mối quan tâm của các nước ngoài khu vực. Họ có thể lên tiếng về tranh chấp biển hay tranh chấp Trường Sa, nhưng hầu như không lên tiếng về Hoàng Sa.
Không ít bản đồ trên thế giới ghi Hoàng Sa là của Trung Quốc. National Geographic Society đã từng làm điều đó, nhưng sửa lại sau khi Việt Nam phản đối. Google Maps hiện nay cũng đang ghi Hoàng Sa là của Trung Quốc.
Giới học giả quốc tế biết rõ là Hoàng Sa là lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp chủ quyền, nhưng họ đề cập đến hay phân tích tranh chấp Hoàng Sa ít hơn so với tranh chấp Trường Sa hay tranh chấp biển.
Trong bối cảnh đó thì trả lời của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cho Quốc hội, “Việt Nam chủ trương đàm phán giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình”, rất khó thực hiện. Một bên thì chủ trương đàm phán giải quyết, bên kia thì cho rằng không có gì để giải quyết, đàm phán: nếu như thế mãi thì không thể đi đến đâu. Không những thế, dù có đàm phán thì đàm phán cũng khó có thể làm cho Trung Quốc trả Hoàng Sa lại cho Việt Nam.

Trọng tài

"Trong bối cảnh đó thì trả lời của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cho Quốc hội, “Việt Nam chủ trương đàm phán giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình”, rất khó thực hiện. "
Nơi duy nhất có thể làm cho Trung Quốc trả Hoàng Sa lại cho Việt Nam là trước một trọng tài. Nhưng Trung Quốc không chấp nhận đưa tranh chấp cho trọng tài phân xử. Trong Thỏa thuận về những Nguyên tắc Cơ bản Chỉ đạo Giải quyết Vấn đề trên Biển với Trung Quốc, Việt Nam cũng đồng ý “Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị”, tức là không đưa tranh chấp Hoàng Sa cho trọng tài. Như vậy thì không thể nào đòi lại được Hoàng Sa. Cách cần thiết để đòi lại Hoàng Sa là chọn thời điểm thích hợp và thách Trung Quốc đưa tranh chấp chủ quyền ra trước một trọng tài.
Theo một số nguồn tin, khi Việt Nam và Trung Quốc tranh cãi về số phận của các ngư dân Việt Nam, phía Việt Nam đã khẳng định rằng Hoàng Sa là của Việt Nam và nếu Trung Quốc có quan điểm khác thì hai bên có thể đưa vấn đề ra tòa án quốc tế, và phía Trung Quốc đã im lặng không trả lời. Việt Nam cần phải chọn thời điểm thích hợp và thách Trung Quốc thường xuyên hơn, công khai hơn.
Cho đến ngày xa vời khi Trung Quốc chấp nhận đưa tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa ra trước một trọng tài, Việt Nam cần tìm các phương án để quản lý tranh chấp, không để cho Trung Quốc hoàn toàn thao túng và mình thì chỉ phản đối chay.
Một trong những phương án cần xem xét là đưa việc Trung Quốc bắt ngư dân và các hoạt động dầu khí của Trung Quốc trong khu vực Hoàng Sa ra cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS theo quy trình sau:
Việt Nam sẽ viện thủ tục bắt buộc trong các Điều 286-296 của UNCLOS để đưa ra cho một trong những trọng tài mà UNCLOS quy định vấn đề: Yêu cầu trọng tài xác định phạm vi vùng biển bị tranh chấp vì tranh chấp Hoàng Sa tồn tại, với mục đích trả lời câu hỏi “Các hoạt động của Trung Quốc làm có nằm trong vùng biển bị tranh chấp hay không?”
Trung Quốc sẽ viện Điều 298 và khước từ với lý do họ đã bảo lưu quyền không chấp nhận dùng thủ tục bắt buộc để giải quyết các vấn đề ranh giới biển.
Việt Nam sẽ tiếp tục theo đuổi với lập luận rằng, theo Điều 298, để bảo lưu quyền không chấp nhận dùng thủ tục bắt buộc để giải quyết các vấn đề ranh giới biển, Trung Quốc phải chấp nhận thủ tục hòa giải của UNCLOS.
"Cho đến ngày xa vời khi Trung Quốc chấp nhận đưa tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa ra trước một trọng tài, Việt Nam cần tìm các phương án để quản lý tranh chấp, không để cho Trung Quốc hoàn toàn thao túng và mình thì chỉ phản đối chay."
Để tránh thủ tục hòa giải, Trung Quốc phải viện lý do Hoàng Sa là lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp chủ quyền nên họ không bắt buộc phải chấp nhận thủ tục hòa giải của UNCLOS.
Trước hết, việc Trung Quốc công nhận Hoàng Sa là lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp chủ quyền sẽ là một điều có lợi cho Việt Nam hơn là họ khăng khăng rằng không tồn tại tranh chấp chủ quyền trên quần đảo này.
Thứ nhì, Việt Nam có thể bác bỏ lập luận của Trung Quốc với lý do: để giải quyết vấn đề “xác định phạm vi vùng biển bị tranh chấp vì tranh chấp Hoàng Sa tồn tại” đưa ra trước trọng tài, không cần phải giải quyết tranh chấp đảo, cho nên Trung Quốc bắt buộc phải chấp nhận thủ tục hòa giải của UNCLOS.
Nếu thủ tục hòa giải của UNCLOS dẫn đến kết luận rằng các hoạt động của Trung Quốc, bao gồm cả xâm phạm bắt ngư dân Việt Nam, xảy ra trong vùng biển đang bị tranh chấp (chứ không phải là của Trung Quốc) thì quan điểm của Việt Nam rằng Trung Quốc không có quyền xâm phạm ngư dân Việt Nam, không có quyền khai thác dầu khí, sẽ được bênh vưc.
Giả sử như trọng tài của UNCLOS có khước từ giải quyết vấn đề Việt Nam đưa ra với lý do Hoàng Sa là lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp chủ quyền đi nữa, thì mệnh đề “Hoàng Sa là lãnh thổ trong tình trạng tranh chấp chủ quyền” của trọng tài cũng sẽ bác bỏ quan điểm của Trung Quốc rằng không tồn tại tranh chấp Hoàng Sa.
Cả hai điều trên đều có thể làm cho Trung Quốc bớt ngang ngược về khu vực và quần đảo Hoàng Sa. Điều đó sẽ góp phần bảo vệ ngư dân và cho việc tìm biện pháp quản lý tranh chấp. Nó cũng góp phần khuyến khích các công ty dầu khí quốc tế không hợp tác với Trung Quốc trong vùng biển có tranh chấp, và khuyến khích các nhà xuất bản bản đồ không ghi Hoàng Sa là của Trung Quốc.
Với tình hình Hoàng Sa bất lợi cho Việt Nam như hiện nay và trong tương lai, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nói riêng và trí thức Việt Nam nói chung cần phải nghiên cứu và phân tích các phương cách khác nhau để đưa vấn đề Hoàng Sa ra trước một trọng tài quốc tế.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một nhà nghiên cứu về Biển Đông hiện sống tại Oxford, Anh Quốc.