Thứ Hai, 17 tháng 10, 2011

Báo cáo đặc biệt của Mỹ về tranh chấp tại Biển Đông và Biển Hoa Đông

Bản báo cáo của của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á (NBR) của Mỹ phân tích, đánh giá những rủi ro ở vùng Biển Đông, biển Hoa Đông và Vịnh Thái Lan; các xu hướng gần đây tại các vùng biển tranh chấp - bao gồm cả tích cực và tiêu cực; các rào cản và cơ hội để thúc đẩy hợp tác. Cuối cùng, báo cáo đề xuất một loạt các kiến nghị chính sách cho các bên liên quan. Bản báo cáo được thực hiện bởi các chuyên gia quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực này. LỜI MỞ ĐẦU Những tranh chấp chủ quyền trên biển ở khu vực Đông và Đông Nam Á là những mối đe dọa tiềm tàng lớn nhất đối với nền an ninh và lợi ích kinh tế của các quốc gia trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Các tuyến giao thông lớn trên biển, đặc biệt là Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự lưu thông tự do của thương mại và hàng hóa. Đồng thời, các vùng biển này này cũng chứa đựng trong nó những tài nguyên sinh vật và phi sinh vật để góp phần duy trì nền kinh tế và dân số của các quốc gia yêu sách cũng như các quốc gia sử dụng các nguồn tài nguyên đó. Cùng với sự phát triển của công nghệ cho phép khoan, đào, khai thác sâu dưới nước, giờ đây tiềm năng tài nguyên của khu vực lại càng lớn. Tuy nhiên, những yêu sách chồng lấn về quyền tài phán và những nỗ lực của các quốc gia nhằm khẳng định vị trí của mình đã gây cản trở cho mọi hoạt động, từ các hoạt động thăm dò cho đến việc khai thác các tài nguyên vốn có. Do tính phức tạp của các yếu tố chính trị, lịch sử, pháp lý, kinh tế trong nước có liên quan, cho đến nay các quốc gia yêu sách vẫn chưa đi đến được một giải pháp cho những tranh chấp này. Thậm chí vấn đề này còn trở nên phức tạp hơn do áp lực ngày càng tăng về việc phát triển nguồn năng lượng trong khu vực khi mà yêu cầu của thế giới ngày càng cao. Những nỗ lực nhằm giải quyết tranh chấp đã được thực hiện hàng thập kỷ nay, cả ở các cấp chính thức lẫn cấp Kênh II, kết quả chúng mang lại là những thỏa thuận nhằm gác xung đột chủ quyền sang một bên và cùng nhau khai thác các nguồn tài nguyên theo các hiệp định tạm thời – một phương pháp được ưu tiên để xây dựng lòng tin và hướng về phía trước. Một số hiệp định song phương ở Vịnh Thái Lan đã cho phép các dự án phát triển tài nguyên đã được triển khai. Các biện pháp xây dựng lòng tin ở Biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN, đặc biệt là Tuyên bố về Ứng xử của các Bên tại Biển Đông năm 2002 (DoC), cũng đã góp phần kiềm chế các căng thẳng, mặc dù không có cơ chế triển khai chính thức. Tuy nhiên các dàn xếp hiện hành cũng có những hạn chế của nó, thậm chí một vài dàn xếp đã bị trì hoãn một cách vô thời hạn. Do đó căng thẳng vẫn tiếp tục leo thang và thường xuyên trở thành tâm điểm thời sự, đặc biệt là giữa các quốc gia yêu sách ở Biển Đông. Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam có lẽ là nóng nhất trong khu vực này và nổi bật bởi hàng loạt các vụ việc xảy ra trong những năm gần đây. Những vụ việc liên quan đến các quốc gia yêu sách khác về vấn đề Trường Sa, cũng như về việc xây dựng các trạm quân sự trên các bãi và đảo san hô ở Biển Đông đã khiến cho căng thẳng đến nay vẫn tiếp diễn và có tính nghiêm trọng, đồng thời trở thành động lực cho các chương trình hiện đại hóa quân sự trong khu vực. Hệ quả là, rất ít khả năng để những quốc gia này giải quyết các bất đồng trong tương lai gần. Nhận thức được rằng, có lẽ là trong hàng thập kỷ tới các quốc gia vẫn khó có thể đi đến được các giải pháp cho những tranh chấp quyền tài phán trên biển trong khu vực, nhưng cũng nhận thức được tầm quan trọng của các vùng biển tranh chấp đối với thương mại và tài nguyên; do đó Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á (NBR) đã nghiên cứu về những tranh chấp này và tác động của chúng, để từ đó đưa ra những cách nhìn mới về cách thức quản lý những xung đột trên trước khi có được một giải pháp về chính trị. Để làm việc này, NBR đã tập hợp một đội ngũ gồm các chuyên gia quốc tế để thực hiện một dự án ba năm có tên là “Maritime Energy Resources in Aisa: Opportunities for Joint Development” [Tài nguyên Năng lượng Biển ở Châu Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung] (MERA) để phân tích các diễn biến gần đây trong khu vực và cung cấp những phân tích và các lựa chọn thực tiễn cho các nhà hoạch định chính sách nhằm góp phần cải thiện các tranh chấp. Dự án này được hỗ trợ bởi Sáng kiến An ninh Châu Á thuộc Quỹ John D. Và Catherine T. MacArthur và được dẫn đầu bởi nhà nghiên cứu trưởng là Tiến Sĩ Cliv Schofield (Trung tâm của Úc về Tài nguyên và An ninh Đại dương, Đại học Wollongong, Úc). Báo cáo này được tổng hợp từ những kết luận và quan điểm chính của đội ngũ các học giả của dự án cũng như kết hợp ý kiến chuyên môn và phân tích của nghiên cứu trưởng, các cố vấn cấp cao, và nhân viên của NBR, những người đã tham dự hội thảo kéo dài ba ngày vào tháng 5/2011 để dự thảo báo cáo này. Mục đích của báo cáo là để tóm tắt và tập trung vào các khía cạnh liên quan đến chính sách của dự án MERA mà không bị hạn chế bởi các chính sách quốc gia hay các đòi hỏi về chủ quyền. Tôi muốn bày tỏ sự cảm kích đối với các tác giả của bản báo cáo này vì thời gian và cống hiến mà họ đã dành ra, cũng như sự ủng hộ của họ đối với dự án MERA trong tất cả các giai đoạn. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Quỹ MacArthur vì sự ủng hộ hào phóng về mặt tài chính, mà nếu không có nó thì dự án này đã không thể thực hiện được. Tim Cook, Giám đốc Dự án, Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á CLIVE SCHOFIELD là Giáo sư và Giám đốc Nghiên cứu tại Trung tâm của Úc về Tài nguyên và An ninh Đại dương (ANCORS), Đại học Wollongong, Úc. Hiện ông là Ủy viên giám đốc của Hội đồng Nghiên cứu Úc và là nghiên cứu trưởng của dự án “Tài nguyên Năng lượng Biển ở Châu Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung” của NBR. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ < clives@uoww.edu.au>. IAN TOWNSEND-GAULT là Giám đốc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Pháp lý Châu Á, Khoa Luật, Đại học British Columbia. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ < itgault@law.ubc.ca> HASJIM DJALAL là thành viên Hội đồng Biển Indonesia; Cố vấn Cấp cao của Bộ trưởng Bộ Hàng hải và Ngư nghiệp, Bộ trưởng Bộ Giao thông, và Trưởng Tham mưu Hải quân Indonesia; và là thành viên của Nhóm Chuyên gia Pháp lý của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Indonesia. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ < hdh@cbn.net.id>. IAN STOREY là Ủy viên giám đốc của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS), Singapore, và là Biên tập viên của tạp chí Contemporary Southeast Asia. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ < ijstorey@edu.sg>. MEREDITH MILLER là Phó Chủ nhiệm Các vấn đề Thương mại, Kinh tế, và Năng lượng ở Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á. Có thể liên lạc với bà qua địa chỉ < mmiller@nbr.org>. TIM COOK là Giám đốc Cao cấp của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á. Có thể liên lạc với ông qua địa chỉ tcook@nbr.org TÓM TẮT Báo cáo này phân tích các kết luận từ dự án ba năm về “Tài nguyên Năng lượng Biển ở Châu Á: Cơ hội cho sự Phát triển Chung” của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á, trong đó đánh giá các tranh chấp quyền tài phán trên biển và các cơ hội hợp tác ở Đông và Đông Nam Á. NHỮNG KÉT LUẬN CHÍNH Những tranh chấp lâu năm về các yêu sách quyền tài phán trên biển ở Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan đe dọa sự ổn định và thịnh vượng lâu dài của các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đa phương trong những thập kỷ gần đây cùng với các thể chế pháp lý quốc tế như Công ước LHQ về Luật Biển, nhưng căng thẳng giữa các quốc gia yêu sách và các quốc gia sử dụng vẫn cao. Các quốc gia yêu sách vẫn chưa đi đến được một giải pháp cho những tranh chấp này do tính phức tạp của các yếu tố chính trị, lịch sử, pháp lý, kinh tế trong nước có liên quan và áp lực cần phải phát triển các nguồn năng lượng trong khu vực tranh chấp. Những mối quan ngại về quyền tiếp cận tài nguyên, cùng với việc các quốc gia yêu sách đã không thực thi được các biện pháp xây dựng lòng tin (CBM) để xoa dịu căng thẳng, đã cho thấy rằng một giải pháp chính trị khó có thể đạt được trong ngắn hạn. Ngay cả khi không có một thỏa thuận dài hạn, thì các quốc gia yêu sách vẫn cần phải có những hành động phối hợp tạm thời để xoa dịu căng thẳng, tăng cường hợp tác và lòng tin, cũng như duy trì cương vị quản lý đối với môi trường và tài nguyên biển. Ý NGHĨA CHÍNH TRỊ + Các quốc gia có thể quản lý tốt hơn những căng thẳng hiện tại bằng cách thực thi các biện pháp xây dựng lòng tin, bao gồm cả các biện pháp được liệt kê trong Tuyên bố về Ứng xử của Các bên tại Biển Đông (DoC). Những biện pháp này có thể bao gồm những việc như sử dụng các đường dây nóng, thông báo trước về việc tập trận quân sự, tìm kiếm và cứu nạn chung, hợp tác về phòng, chống các mối đe dọa xuyên quốc gia, các quy định về ứng xử khi đụng độ trên biển cả, và tăng cường minh bạch về quân sự. + Bất kể hạn chế trong việc thực thi DoC, Trung Quốc và các nước ASEAN cần phải bắt đầu đàm phán để về một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông để chính thức hóa các biện pháp xây dựng lòng tin và hạn chế những hành động gây mất ổn định. +Việc quản lý tạm thời nhiều tranh chấp lãnh thổ và trên biển có liên kết với nhau ở Châu Á là cách tốt nhất để đảm bảo quyền tự do hàng hải và sự lưu thông tự do của thương mại, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Những dàn xếp này sẽ không phương hại tới các yêu sách trên biển của các quốc gia trong thời gian ngắn. Không gian biển nửa kín của Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan là nơi chứa đựng các tuyến giao thông trên biển (SLOC) có giá trị vô cùng quan trọng không chỉ với các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á mà còn với thương mại toàn cầu. Hơn nữa những vùng biển này còn chứa một môi trường biển vô cùng đa dạng về sinh học, có giá trị lớn với ngành đánh cá, và do đó nó duy trì được sự sống của hàng trăm triệu người. Thêm vào đó, từ lâu đã có những dự đoán rằng những khu vực này chứa đựng trữ lượng dồi dào các nguồn năng lượng đáy biển – một tiềm năng có sức hấp dẫn vô cùng lớn trong một thời đại mà mối lo ngại về an ninh năng lượng ngày càng gia tăng. Tuy các nguồn trữ lượng năng lượng dưới đáy biển đã được phát hiện và đang trong quá trình được phát triển trong khu vực Biển Hoa Đông, Biển Đông, và Vịnh Thái Lan, nhưng tiềm năng thực sự của những khu vực này vẫn chưa được làm sáng tỏ và cũng chưa thể hiện thực hóa do các tranh chấp về quyền tài phán lãnh thổ và trên biển vẫn là những đặc tính cố hữu của những vùng biển này. Thực tế là những không gian biển này đã được định hình bởi nhiều tranh chấp chủ quyền đối với những hòn đảo, đảo đá, bãi đá ngầm có diện tích nhỏ và cách xa bờ cùng với những yêu sách chồng chéo và không phải lúc nào cũng rõ ràng về quyền tài phán. Những tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán trên biển ở Đông và Đông Nam Á là những điểm nóng có nguy cơ trở thành mối đe dọa đối với hòa bình, an ninh, và cùng với nó là thịnh vượng về kinh tế trong những khu vực này. Những yêu sách xung đột nhau về chủ quyền đối với các hòn đảo và các đảo nhỏ cùng với những yêu sách chồng lấn trên biển liên quan đến chúng là nguồn gốc của sự căng thẳng trong suốt hàng thập kỷ qua. Những tranh chấp này đã dẫn đến hàng loạt các vụ việc và thậm chí là đụng độ quân sự giữa các quốc gia yêu sách trong quá khứ. Với sự dai dẳng của các tranh chấp, rất có khả năng những vụ việc đó sẽ lại tiếp diễn và có nguy cơ phát triển thành những xung đột lớn hơn. Việc không có một giải pháp giải quyết tranh chấp đã là một cản trở lớn đối với các lợi ích tích cực mà những không gian biển và các tài nguyên của nó có thể mang lại cho các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt là khi nhìn từ góc độ năng lượng, các tuyến biển của Châu Á là những điểm quá cảnh quan trọng – và cũng có thể là những nguồn trữ lượng dồi dào – của năng lượng hidrocacbon mà các nền kinh tế trong khu vực phải dựa vào để duy trì quỹ đạo phát triển của mình. Nhiều quốc gia trong khu vực đang bị thâm hụt nguồn năng lượng trong nước một cách nghiêm trọng và đang ngày càng phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu thô để đáp ứng các yêu cầu. Chẳng hạn, ở Đông Á Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước phụ thuộc rất nhiều vào dầu thô để đáp ứng hầu hết các yêu cầu của mình, và trong năm 2009 Trung Quốc đã phải dựa vào dầu thô nhập khẩu để giải quyết 53% các nhu cầu. Sự lệ thuộc vào dầu thô và khí của hầu hết các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á (ngoại trừ Brunei) được dự đoán là sẽ còn tăng mạnh trong tương lai. Hầu hết các nguồn năng lượng nhập khẩu này đến từ Châu Phi và Trung Đông và được vận chuyển bằng đường biển qua các điểm kiểm tra ở Đông Nam Á như Eo biển Malacca, Singapore, Sunda, Lombok, Makassar, và Balabac rồi mới đi tiếp qua Biển Đông và Biển Hoa Đông đến bến cảng cuối cùng. Bất kỳ cuộc đụng độ hay biểu dương lực lượng nào ở một trong những điểm này cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới an ninh năng lượng trong khu vực do tàu thuyền phải điều chỉnh lại tuyến hàng hải. Do trữ lượng dầu chủ yếu của thế giới tập trung ở những nơi như Trung Đông nên các nguồn cung cấp thay thế mà không đòi hỏi việc quá cảnh qua khu vực bị ảnh hưởng là tương đối thấp. Tranh chấp trong khu vực trải rộng từ những yêu sách chủ quyền đối với đảo và vùng biển liên kết cho đến những bất đồng về năng lực của những hòn đảo nhỏ, xa bờ, và không có người sinh sống để bổ trợ cho những yêu sách mở rộng đối với không gian biển. Những bất đồng về vai trò của các hòn đảo trong việc phân định biên giới trên biển, cũng như những bất đồng về cách thức tiếp cận hay phương pháp của việc phân định biên giới đã làm trầm trọng thêm sự phức tạp của các tranh chấp và dẫn đến sự trì hoãn của một biện pháp giải quyết cuối cùng. Những nỗ lực để giải quyết các tranh chấp này đã tiếp diễn hàng thập kỷ nay tại các cấp độ chính phủ và cấp độ Kênh II mà hầu như không đạt được mấy thành công. Trong đó, những nỗ lực trong cách tiếp cận về pháp luật quốc tế dựa trên Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS), các cuộc đàm phán phân định biên giới song phương, và các hiệp định phát triển tài nguyên chung đã đóng vai trò kiềm chế hành vi của các quốc gia, đưa ra các lựa chọn thay thế, và nhìn chung đã nhấn mạnh vai trò của ngoại giao và đàm thoại thay vì sử dụng lực lượng quân sự trong việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu đáng báo động về căng thẳng đang gia tăng giữa các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á về những yêu sách chồng chéo của họ. Chẳng hạn, trong nửa đầu năm 2011 đã có ít nhất là hai lần tàu hải giám của Trung Quốc quấy rầy tàu thăm dò địa chấn do chính phủ Philippin và Việt Nam làm chủ quản và buộc những con tàu này phải ngừng các hoạt động khai thác của mình. Sự kiện đầu tiên xảy ra vào tháng 3 ở Bãi Cỏ rong, một khu vực mà Philippin cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) kéo dài 200 hải lý của mình. Sự kiện thứ hai xảy ra vào tháng 5 ở vùng biển gần tỉnh Phú Yên của miền trung Việt Nam. Cả Manila và Hà Nội đều đã phản đối những hành động của tàu tuần tra Trung Quốc. Một vụ việc khác đã xảy ra vào tháng 9/2010 khi lực lượng Biên phòng Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng của một con tàu đánh cá của Trung Quốc sau một cuộc đụng dộ ở vùng biển tranh chấp ở Biển Hoa Đông. Sự kiện này, cùng với căng thẳng ngoại giao về sau, đã làm dấy lên căng thẳng giữa các thành phần chủ nghĩa dân tộc của hai nước và làm lu mờ hơn khả năng thực thi hiệp định năm 2008 về vùng phát triển chung và dự án dầu khí. Trong khi đó, ở Vịnh Thái Lan tình trạng xấu đi của quan hệ giữa Campuchia và Thái Lan, chủ yếu do những tranh chấp trên biên giới đất liền, vẫn có khả năng lan ra biển. Những vụ việc nêu trên và một loạt các tranh cãi tương tự đã thường xuyên xảy ra trong các năm gần đây. Trong mọi vụ việc thì căng thẳng và sự mất lòng tin đều gia tăng giữa các chủ thể chính, và từ đó đặt ra nghi vấn về khả năng giải quyết những tranh chấp này trong tương lai. Ở những nơi có những yêu sách chồng lấn về biển, những bất trắc về quyền tài phán rõ ràng đã gây phức tạp cho công tác quản lý tài nguyên đại dương. Những chính sách không được điều phối dẫn đến tranh chấp về tài nguyên mang tính hủy hoại và không bền vững, đặc biệt là đối với các tài nguyên sinh vật biển. Sự đối đầu, va chạm giữa các đoàn tàu đánh cá có thể nhanh chóng kéo các cơ quan chức năng của các quốc gia ven biển vào cuộc, đặc biệt là khi các lực lượng an ninh của quốc gia chỉ đơn thuần cho là mình đang tuần tra ở không gian biển “của mình”. Sự cạnh tranh về tài nguyên cũng có xu hướng kích động các thành phần chủ nghĩa dân tộc - tương tự những gì đã xảy ra trong các cuộc biểu tình ở Trung Quốc về việc Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng thuyền đánh cá của Trung Quốc. Những tư tưởng chủ nghĩa dân tộc như vậy càng làm gia tăng rủi ro cho các nhà lãnh đạo chính trị do họ có thể vì lí do nhượng bộ mà thể hiện sự yếu đuối với công dân của mình. Trong trường hợp xấu nhất, nếu căng thẳng leo thang và trở thành xung đột vũ trang thì quyền tự do hàng hải và thương mại tren biển, bao gồm việc quá cảnh các nguồn tài nguyên năng lượng quan trọng, sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Clive Schofield, Ian Townsend-Gault, Hasjim Djalal, Ian Storey, Meredith Miller, và Tim Cook Bá Việt (dịch) Quang Hưng (hiệu đính) Báo cáo của Cục Nghiên cứu Quốc gia về Châu Á (National Bureau of Asian Research) về hợp tác trên biển ở Đông và Đông Nam Á, bản gốc tiếng Anh “From Disputed Waters to Seas of Opportunity: Overcoming Barriers to Maritime Cooperation in East and Southeast Asia” Tin mới hơn: Tranh chấp Biển Đông trong quan hệ ASEAN và Trung Quốc: Đa phương và Song phương[03/10/2011 15:33] Tin cũ hơn: Trung Quốc: Tọa đàm hẹp về tình hình Biển Đông và lợi ích, chiến lược của Trung Quốc[15/09/2011 00:00] Trung Quốc có thể bảo vệ được "lợi ích cốt lõi" tại Biển Đông hay không?[12/09/2011 08:46] ASEAN và tranh chấp Biển Đông[05/09/2011 13:57] Tuyên bố Hà Nội của Clinton về Biển Đông: Khởi nguồn chiến lược kiềm chế Trung Quốc của Mỹ? [31/08/2011 16:58] Đánh giá hiệu quả các khuôn khổ và cơ chế về an ninh biển trên Biển Đông hiện nay[31/08/2011 00:00] Vai trò của Nhật Bản trong vấn đề Biển Đông[30/08/2011 00:00] Triển vọng trong tương lai và các hàm ý chiến lược (phần cuối)[26/07/2011 07:00] Địa chính trị, Hải quân và Chiến lược ở Biển Đông[29/06/2011 15:12] Ngoại giao ống dẫn dầu của Trung Quốc: Mối đe dọa của những xung đột cường độ thấp[28/06/2011 09:40]

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2011

Ra công viên xem Tây dạy con

Cập nhật lúc 19/08/2011 06:22:00 AM (GMT+7) trên VietnamNet

Không ít mẹ Việt đã từng thèm thuồng khi nhìn những đứa trẻ Tây tự ngồi xúc ăn một cách ngoan ngoãn bên cạnh bố mẹ. Không ít bà mẹ Việt đã từng thèm muốn có được ¨phép màu¨ của những ông bố, bà mẹ Tây khi chỉ cần một cái lừ mắt, một câu ¨No! No!¨ nhẹ nhàng là lập tức đứa trẻ ngoan ngoãn vâng theo. Liệu có phải trẻ Tây ngoan hơn trẻ Việt hay những ông bố, bà mẹ Tây có bí quyết 'thuần phục' trẻ?



Ra công viên, xem Tây dạy con

Ngay từ những ngày đầu, tôi thấy các ông bố bà mẹ Tây mới sung sướng làm sao khi họ cứ việc ngồi trò chuyện, uống nước với nhau trong quán để mặc con cái tự chơi trong công viên với nhau.
Công viên chia thành từng khu vực cho từng đối tượng, nhưng đông nhất vẫn là khu vực dành cho trẻ dưới 8 tuổi. Đồ chơi được đổ ra, bọn trẻ chơi với nhau thân thiện, vui vẻ cho dù trước đó chúng chưa hề gặp, không tiếng cãi nhau, không cảnh tranh giành đồ chơi, không có tiếng khóc gọi bố, mẹ… Chơi xong, trẻ tự thu dọn đồ chơi của mình. Nếu có trẻ đang chơi đồ chơi của bạn mà bạn về, chỉ cần nghe thấy câu ¨tớ phải về nhà bây giờ¨ thì cho dù thích đồ chơi đó đến đâu, bé cũng trả bạn ngay.
Nhưng 'ngưỡng mộ' nhất với tôi đó là việc ăn của trẻ. Với những trẻ lớn đã đi học mẫu giáo hoặc tiểu học, chúng cầm bánh mỳ hoặc đồ ăn khác mà bố mẹ đưa cho, tự ăn một cách ngon lành; những trẻ bé còn ăn bột, sữa thì ¨bị¨ đặt vào xe đẩy và ngồi yên để bố/mẹ xúc cho ăn.
Tôi thường xuyên được chứng kiến cảnh trong vòng 5-10 phút, bé hoàn thành phần bột, cháo, hoa quả nghiền hay sữa của mình. Tôi liên tưởng đến cảnh 'cực khổ' mỗi khi cho con ăn của mình cũng như của không ít bà mẹ Việt. Và ngày ngày đưa con ra công viên chơi, tôi quan sát, tôi để ý xem tại sao họ- những ông bố, bà mẹ Tây làm được những điều mà tôi không thể. Những ngày ở công viên trẻ em đã giúp tôi có những so sánh để nhận ra sự khác biệt giữa hai cách dạy con - của họ và của tôi (và có lẽ là của nhiều mẹ Việt), giúp tôi nhận ra và học hỏi được nhiều điều từ cách dạy con của mẹ Tây.
Rèn con từ nhỏ, kiên trì, lắng nghe, nghiêm khắc và làm bạn với con
Lòng kiên trì của mẹ Tây với con có lẽ mẹ Việt phải chào thua. Nhiều mẹ Việt băn khoăn tự hỏi làm sao để 'không nổi khùng khi chơi với con', làm sao để không nổi cáu khi dạy con học.
Trái lại, mẹ Tây là những người bạn thực sự của con. Mẹ Tây có thể ngồi chơi xúc cát với con, thậm chí, cả với trẻ mới gặp lần đầu đến cả 1 - 2 giờ đồng hồ. Nếu bé có hành động chưa đúng, mẹ nhẹ nhàng nhưng vô cùng kiên quyết nói ¨No! No!¨ (không được) cho đến khi nào trẻ dừng hành động sai trái của mình.
Đặc biệt, mẹ ¨Tây¨ cực kỳ kiên nhẫn lắng nghe những thắc mắc của trẻ và ¨miệt mài¨ giải thích cho những câu hỏi ¨tại sao không¨ của bé mà không hề nổi nóng. Rất nhiều ngày ra công viên, tôi chưa một lần thấy mẹ Tây quát mắng, nặng lời với con.
Ngay từ khi còn rất nhỏ, chỉ vài tháng tuổi, bé đã được bố mẹ cho ra công viên chơi cùng các bạn. Với bé dưới 3 tuổi, bố mẹ theo sát từng cử chỉ, hành động của con, từ ¨No! No!¨ luôn được họ sử dụng để uốn nắn bé và kèm sau đó là lời giải thích cho lý do ¨No! No!¨ ấy.


Ra công viên, tất cả đồ chơi đều là của chung! Những câu như : ¨Con chơi chung với bạn đi¨, ¨Con giúp bạn xúc cát đi¨, ¨Con cảm ơn bạn đi¨… luôn được mẹ Tây sử dụng. Chính vì được kèm cặp từ nhỏ như vậy nên đến khi các bé ngoài 3 tuổi, bố mẹ hầu như không phải lo lắng gì khi để chúng tự chơi với bạn. Đây cũng có thể là một lý do khiến người Tây làm việc theo nhóm tốt hơn người Việt.
Chuyện của trẻ con để trẻ con tự giải quyết! Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa cách dạy con của ¨Tây¨ và của người Việt. Nếu mỗi khi trẻ Việt khóc đòi đồ chơi của ai đó thì ông, bà hoặc bố mẹ hay người trông bé sẵn sàng hỏi mượn cho bé. Với bé ¨Tây¨, điều này khác hoàn toàn, bé phải tự hỏi mượn bạn, bạn không cho mượn, bé phải ¨chấp nhận¨, không được khóc lóc, mè nheo. Bé tuyệt đối không được đòi, tranh đồ chơi của bạn. Khi mượn, chơi xong hoặc bạn về, bé đưa trả bạn một cách tự nguyện, vui vẻ, thậm chí còn giúp bạn thu dọn đồ chơi. Người lớn hầu như không can thiệp vào chuyện của trẻ khi có những cãi cọ, tranh giành nho nhỏ, họ để cho chúng tự tìm cách hòa giải với nhau.
Hào phóng lời khen với trẻ! Nếu như một số ông bố, bà mẹ Việt sợ rằng khen nhiều con sẽ kiêu căng, sợ con không có ý chí phấn đấu nên ¨hà tiện¨ lời khen với con, thậm chí còn dùng cách ¨khích tướng¨ bằng cách chê bai để trẻ ¨bực mình¨ mà phấn đấu vươn lên thì các ông bố, bà mẹ ¨Tây¨ lại cực kỳ ¨hào phóng¨ lời khen với trẻ.
Chỉ cần trẻ làm được một việc gì đó cho dù rất nhỏ cũng nhận được câu ¨rất tốt¨, ¨rất giỏi¨, ¨rất ngoan¨. Trẻ luôn được khích lệ để làm việc tốt. Ngược lại, trẻ cũng bị nhắc nhở, phê bình nghiêm khắc khi có hành động chưa đúng dù cũng rất nhỏ.
Nhìn những khuôn mặt vui vẻ của trẻ mỗi khi được khích lệ, tôi chợt nghĩ rằng, có lẽ cách của mẹ ¨Tây¨ hiệu quả hơn cách ¨khích tướng kiểu chê bai¨ của một số ông bố, bà mẹ Việt.
Bởi rằng, trẻ Việt không phải là những ¨ông tướng Tàu¨ thời xưa để có thể nung nấu ý chí, vượt khó khăn, phấn đấu vươn lên để ¨rửa nhục¨. Những lời nhiếc mắng, chê bai nặng lời của bố mẹ đôi khi còn làm tổn thương nặng nề tâm hồn trẻ thơ, làm nhụt ý chí của trẻ, thậm chí, ám ảnh trẻ lâu dài.
Nhìn sự ân cần, kiên nhẫn, tỉ mỉ dạy con của họ, tôi thấy rằng, quả thật, kỹ năng giáo dục trẻ của tôi còn ¨thiếu¨ và ¨yếu¨. Tôi đã hiểu, tại sao trẻ ¨Tây¨ ngoan thế!
Tất cả chỉ bởi vì chúng nhận được một sự giáo dục tốt từ nhỏ, từ chính bố mẹ chúng. Giá như tôi cũng như nhiều bà mẹ Việt khác cũng có được sự kiên trì, nhẫn nại với con, luôn dịu dàng với con, luôn là bạn của con, giành nhiều thời gian hơn để hiểu tâm lý con và bớt nóng nảy hơn trong chăm sóc, dạy dỗ con.
Nguyên An (Tây Ban Nha)

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

Thứ bậc Trí tuệ Việt Nam trong bảng xếp hạng toàn cầu

Đầu tháng 7/2011 Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) cùng các đối tác đã công bố bảng xếp hạng toàn cầu năm 2011. Trong đó Việt Nam xếp thứ 51/125, như vậy là ở mức trên trung bình của thế giới.

Định nghĩa mới về đổi mới/sáng tạo

Từ năm 2007, Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu (World Intellectual Property Organization - WIPO thuộc LHQ)) đã cùng một số đại công ty, tổ chức phi chính phủ cho ra đời hệ thống Chỉ số Đổi mới/Sáng tạo toàn cầu- Global Innovation Index (GII) và lập ra bảng xếp hạng hằng năm của các quốc gia trên thế giới. Có nhiều lý do để làm việc này:

Thông thường người ta quen đánh giá sự đổi mới/sáng tạo theo các chỉ số truyền thống chẳng hạn như số lượng tiến sĩ, bao nhiêu bài báo nghiên cứu khoa học được công bố, số trung tâm nghiên cứu được thành lập, số bằng sáng chế được cấp, và kinh phí dành cho R&D là bao nhiêu % GDP.

Rõ ràng là những tiêu chí đó chỉ phản ánh phần nào về đổi mới/sáng tạo mà thôi. Cần phải có một chỉ số tổng quát hơn, một cách tiếp cận tốt hơn để phản ánh sự phong phú của sự đổi mới/sáng tạo của một xã hội.

Định nghĩa của sự đổi mới/sáng tạo nay đã mở rộng, nó không còn giới hạn với các phòng thí nghiệm R&D hoặc với việc xuất bản các bài báo khoa học, mà còn bao gồm cả những đổi mới/sáng tạo về xã hội cũng như đổi mới/sáng tạo mô hình kinh doanh.

Đổi mới/sáng tạo là động lực quan trọng cho sự tiến bộ kinh tế và sức cạnh tranh đối với các nước đã phát triển cũng như đang phát triển. Nhiều Chính phủ đang đặt sự đổi mới/sáng tạo thành trung tâm của chiến lược phát triển.

Phương pháp và kỹ thuật đánh giá: Nhóm đầu vào, đầu ra

Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII- Global Innovation Index) được tính theo hai nhóm chỉ số con là, nhóm các chỉ số đổi mới/sáng tạo đầu vào và nhóm các chỉ số đầu ra, mỗi nhóm này được xây dựng trên các tiêu chí (gốc) cơ bản.

Năm tiêu chí gốc đầu vào gắn chặt với các yếu tố kinh tế quốc dân, tạo tiền đề cho các hoạt động đổi mới/sáng tạo. Đó là: (1) Tổ chức, (2) Nguồn lực con người và nghiên cứu, (3) Cơ sở hạ tầng, (4) Độ chín của thị trường, và (5) Mức hoàn thiện của kinh doanh.

Hai tiêu chí đầu ra là minh chứng cho kết quả đầu ra của đổi mới/sáng tạo: (6) Kết quả khoa học, (7) Thành quả sáng tạo.

Mỗi tiêu chí gốc này lại được chia thành các tiêu chí nhánh và mỗi tiêu chí nhánh được tạo bởi một loạt các chỉ dấu riêng (Indicator). Điểm số của tiêu chí nhánh là trung bình theo trọng số của các chỉ dấu. Điểm số của tiêu chí gốc là trung bình cộng của điểm số các tiêu chí nhánh.


Ví dụ tiêu chí gốc Tổ chức thì chia ra làm 3 tiêu chí nhánh: Môi trường chính trị, Môi trường điều hành, Môi trường kinh doanh. Trong tiêu chí nhánh như Môi trường chính trị thì đánh giá cho điểm hoặc phỏng vấn theo ba chỉ dấu: Độ ổn định chính trị, Hiệu lực chính quyền, Tự do báo chí. Tổng hợp lại, cần phải đánh giá khoảng 70 chỉ dấu (Indicator) thì mới có được chỉ số đổi mới/sáng tạo cho một quốc gia.

Việt Nam xếp thứ 51/125 - trên mức trung bình của thế giới

Đầu tháng 7/2011 Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization (WIPO)) cùng các đối tác đã công bố bảng xếp hạng toàn cầu năm 2011. Trong đó, Việt Nam xếp thứ 51/125, như vậy là ở mức trên trung bình của thế giới.

So sánh trong ba năm và với các nước láng giềng, ta thấy Việt Nam vượt lên đứng thứ tư trong ASEAN và tăng 20 bậc so với 2010, còn các nước như Indonesia và Philippines thì tụt xuống đứng sau Việt Nam. Các nước trên Việt Nam đều giữ được vị trí cao như cũ, đặc biệt Singapore, lọt vào top 10 thế giới:

Tìm hiểu về xếp hạng theo tiêu chí năm 2011 thì ta thấy Việt Nam có tiêu chí đầu vào thấp nhưng đầu ra lại cao, theo một nghĩa tương đối thì hiệu suất đổi mới/sáng tạo của Việt Nam cao. Có thể tin vào điều này được không?

Tuy nhiên, cũng có thể có sự hoài nghi nào đó về bảng xếp hạng, chẳng hạn như năm nay Việt Nam lại đứng trên cả Nga, có lẽ là phi lý chăng? Cũng không loại trừ số liệu thống kê mà Việt Nam công bố có thể có chỗ đáng ngờ.

Dù có vài điều nghi ngờ, nhưng Chỉ số Đổi mới/Sáng tạo này thực sự là một công trình công phu, toàn diện và khoa học hơn các cách đánh giá trước đây rất nhiều. Nó có thể làm căn cứ cho các quốc gia cũng như các tổ chức kinh tế, khoa học quốc tế lấy đó làm một cơ sở để hoạch định chính sách.

*)Lược trích theo tài liệu
The Global Innovation Index 2011:Accelerating Growth and Development
ISBN: 978-2-9522210-1-6
Printed and bound in France by INSEAD, Fontainebleau

(Theo Tia Sáng)

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2011

Tình thế lưỡng nan của VN, Philippines và những cơ hội mới

Tác giả: TS LÊ HỒNG NHẬT
Bài đã được xuất bản trên VietNamNet


Vấn đề là việc phối hợp giữa Việt Nam / Philippines đứng trước tình thế lưỡng nan (prisoner s'dilemma) là, nếu "anh" không sẵn sàng bảo vệ "tôi" khi tôi bị chèn ép, thì chính vì điều đó, tôi cũng sẽ không sẵn sàng bảo vệ anh, khi anh bị chèn ép.


Tính đa phương trong cuộc chơi chèn ép song phương về chủ quyền

Hợp tác đa phương giữa các quốc gia nhỏ, chống lại sự chèn ép bởi quốc gia lớn trong vùng, là điều tự nhiên, nhưng khó thực hiện. Lấy ví dụ, Trung Quốc gây hấn với tàu thuyền của Philippines gần Bãi Cỏ rong (Reed Bank). Nhưng điều đó chưa đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của Việt Nam, vốn muốn giữ tình láng giềng hữu hảo với Trung Quốc. Ngược lại, việc Trung Quốc cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh 02, cũng không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của Philippines, trong khi nước này vẫn có lợi ích thương mại và bang giao với Trung Quốc về nhiều mặt.

Vì lẽ đó, tại hội nghị an ninh khu vực Shangri-La tại Singapore, người ta chứng kiến sự phản đối đồng thời của cả Việt Nam và Philippines trước hành động gây hấn của Trung Quốc. Nhưng đây không phải là hành động phối hợp trong một "Mặt trận thống nhất", như điều mà Thượng nghị sĩ Mỹ McCain đã nêu tại Washington sau đó, vào ngày 20/06/2011. Vì vậy, cho đến nay, bản chất của cuộc chơi chèn ép song phương do Trung Quốc tiến hành vẫn không thay đổi. Cùng với nó là sự mất mát đơn phương về chủ quyền của Việt Nam / Philippines vẫn chưa có chuyển biến tích cực. Ví dụ, ngay sau khi hội nghị cấp cao về an ninh khu vực Shangri-La vừa kết thúc, Trung Quốc ngay lập tức cho 3 tầu bán vũ trang cố tình tấn công, cắt cáp tàu Viking 02 của Việt Nam.


Vấn đề là việc phối hợp giữa Việt Nam / Philippines đứng trước tình thế lưỡng nan (prisoner s'dilemma) là, nếu "anh" không sẵn sàng bảo vệ "tôi" khi tôi bị chèn ép, thì chính vì điều đó, tôi cũng sẽ không sẵn sàng bảo vệ anh, khi anh bị chèn ép. Sự hình thành một Mặt trận thống nhất trong khu vực, do đó, đòi hỏi có sự nhất trí và hợp tác đủ rộng và đủ chặt về nhiều mặt giữa các thành viên có liên quan (economies of scale and scope in coordination mechanism).

Những chuyển biến tích cực

Chính ở điểm này, sự tham dự của Mỹ, Nhật, và cả Nga, Ấn Độ, như là một đối trọng với Trung Quốc để gìn giữ an ninh khu vực, chứ không phải đối đầu về quân sự, là vô cùng quan trọng. Cụ thể là sau khi Thượng nghị sỹ Jim Webb lên tiếng kêu gọi Quốc hội Hoa Kỳ phải có động thái tương thích trước các hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông, thì tính phối hợp của các nước trong khu vực và quốc tế đã có một sự chuyển biến tích cực. Diễn biến của hội thảo về Biển Đông tại Washington hôm 20 -21/06/2011 thể hiện điều đó.

Từ hội thảo này, một cơ chế an ninh và hợp tác đa phương, nhằm dàn xếp hòa bình các tranh chấp tại Biển Đông, đã bắt đầu được hình thành. Cơ chế an ninh đó là nhằm thúc đẩy: (i) Các bên phải có hành động kiềm chế, không sử dụng vũ lực trên không và trên biển để giải quyết tranh chấp. (ii) Hình thành một mặt trận thống nhất hành động nhằm gìn giữ sự ổn định trong khu vực. (iii) Mỹ cần có hành động phối hợp một cách đúng lúc, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, nhằm ngăn chặn xung đột tiềm tàng. Sự phối hợp này có thể bao hàm việc tập trận chung nhằm duy trì an ninh hàng hải, cho đến việc giúp các nước trong vùng triển khai các hệ thống cảnh báo sớm, xây dựng hệ thống phòng thủ chống lại nguy cơ xảy ra xâm lược vũ trang. (iv) Tăng khả năng cam kết của Mỹ với việc bảo vệ an ninh khu vực và trật tự hàng hải quốc tế. Nói rõ hơn: "Mỹ chấp nhận hay không chấp nhận những tuyên bố nào, cũng như chúng ta (Mỹ) sẵn sàng ủng hộ những hành động nào" (McCain, 20/06/2011).

Cần nhắc lại là, việc bảo vệ an ninh khu vực và tự do an toàn hàng hải trên Biển Đông là một dạng hàng hóa công (public goods). Thiếu vai trò của siêu nhà nước, như Mỹ và Nhật, thì sẽ có quá ít sự đảm bảo về ổn định khu vực và an toàn hàng hải. Cụ thể là khi Philippines cho nhổ các cột đá do Trung Quốc dựng trên bãi đá thuộc vùng biển của mình, hay Malaysia cho máy bay ra đuổi tầu đánh cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải của Malaysia, thì các nước này thực tế đã cung cấp hàng hóa công. Theo nghĩa, hành động của họ ngăn cản Trung Quốc xâm hại lãnh thổ và chủ quyền biển đảo của nước mình, tự nó mang tính răn đe việc Trung Quốc đi xâm hại một nước khác trong khu vực.

Bên cạnh đó, sự trả lời được cho là cứng rắn nhất của Thủ tướng Việt Nam tại Nha Trang sau vụ việc Bình minh 02, cũng như sự đáp trả của báo Đại đoàn kết của Việt Nam trước lời đe dọa sử dụng vũ lực của Trung Quốc vào ngày 21/06/2011 trên tờ Hoàn Cầu, lại là một tín hiệu khích lệ Philippines thể hiện thái độ kiên quyết bảo vệ chủ quyền của mình*.

Tàu Viking 2 của Việt Nam bị cắt cáp chỉ vài ngày sau Đối thoại Shangri-La.
Tuy nhiên, việc từng nước nhỏ cung cấp hàng hóa công, hay tự vệ đơn phương như vậy, không bao giờ là đủ để ngăn chặn sự chèn ép. Vấn đề là các nước khác trong vùng có thể ngồi yên, hưởng lợi từ việc các nước "tiền tuyến" phải đơn phương đứng ra bảo vệ chủ quyền, mà hệ quả là sẽ đem lại sự ổn định hơn tại Biển Đông, nếu họ thành công. Ngược lại, nếu họ bị suy yếu đi, thì các nước còn lại đã nằm sẵn trong một trật tự mới đang dần được thiết lập, mà không bị tổn thất gì (free ridding).

Tình thế lưỡng nan trong hợp tác khu vực (prisoners' dilema) và động cơ hưởng lợi trên nỗ lực của nước khác (free ridding), khiến cho vai trò phối hợp của Mỹ, Nhật, và các nước như Nga, Ấn Độ, càng trở nên không thể thiếu được, dù không dễ dàng. Tuy nhiên, sau Hội thảo Biển Đông tại Washington, chúng ta có thể kỳ vọng về một sự cam kết cao hơn của Mỹ và đồng minh trong việc bảo vệ chủ quyền của Philippines. Chúng ta cũng có thể kỳ vọng một sự hỗ trợ đúng lúc và hiệu quả của Mỹ, Nhật và các nước khác cho Việt Nam, trước tuyên bố hiếu chiến của Trung Quốc trên tờ Hoàn cầu. Cụ thể là Mỹ, Nhật và Nga có thể giúp nâng cao khả năng phòng thủ và cảnh báo sớm của Việt nam trên không, trên biển đảo, và trên đất liền.

Cần nhấn mạnh rằng, vai trò của Mỹ, Nhật và cộng đồng quốc tế không phải là làm tăng sự đối đầu về quân sự. Vai trò chính là phải đưa ra những phản ứng kịp thời, phù hợp với bối cảnh cụ thể, tới đúng đối tác cụ thể, nhằm ngăn chặn khủng hoảng khu vực và thúc đẩy nỗ lực hợp tác.

Trong bối cảnh có sự khác biệt về ý thức và khả năng bảo vệ chủ quyền giữa các nước trong khu vực; cộng với sự khó khăn về kinh tế sau khủng hoảng của cả Mỹ, Nhật và Tây Âu; bên cạnh một Trung Quốc đang lên; liệu một cơ chế an ninh quốc tế có tính đa phương có hình thành được không? Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhìn sâu hơn vào những thay đổi có thể diễn ra của cuộc chơi chèn ép, khi có sự tham dự của bên thứ ba - Mỹ, Nhật và các nước khác như Nga, Ấn Độ.

Trung Quốc và hai cuộc chơi liên đới

Trong cuộc chơi chèn ép song phương đã mô tả ở trên, điểm mạnh của Việt nam / Philippines là công lý đứng về phía mình. Tính phiêu lưu trong chiến lược chèn ép của Trung Quốc là nó ngày một đẩy Mỹ và các đồng minh của Mỹ là Nhật Bản và Tây Âu, bao gồm cả Úc, vào thế phải đối đầu với Trung Quốc trong một cuộc cạnh tranh về tự do hàng hải. Cụ thể là xung đột trong tương lai về quyền tự do lưu thông và an ninh hàng hải ở Tây Thái Bình Dương, một khi Việt Nam / Philippines và các nước trong khu vực bị mất dần chủ quyền và rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc.

Như vậy, song song với cuộc chơi chèn ép các nước nhỏ, Trung Quốc tiến hành một cuộc chơi khác, giành thế và lực trong cuộc cạnh tranh hay đối đầu trong tương lai về trật tự khu vực với Mỹ, Nhật, Úc và cả các nước khác như Nga, Ấn Độ.

Xét ở thời điểm hiện tại, hai cuộc chơi này không phải là không liên đới nhau (Multi-game linkage). Cụ thể là, trước sự chèn ép hay đe dọa quân sự của Trung Quốc, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, mà Mỹ và Nhật đóng vai trò quan trọng, sẽ cho phép Việt Nam / Philippines "lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh". Một khi sức mạnh tự vệ của Việt Nam / Philippins tăng lên, thì sẽ làm tăng thế và lực của cộng đồng quốc tế, đứng đầu là Mỹ, trong cuộc chơi thứ hai nhằm bảo vệ trật tự khu vực.

Điểm nhấn trong sự kết nối giữa hai cuộc chơi này chính là tính chính nghĩa. Hành động của Trung Quốc càng bạo ngược, càng phi đạo lý, thì vị thế của nó trong khu vực càng giảm. Theo nghĩa, sự liên kết giữa các nước nhỏ với Mỹ và đồng minh nhằm bảo vệ chủ quyền và ổn định khu vực càng tăng. Ngược lại, mọi chuyển biến tích cực từ phía Trung Quốc, tự nó sẽ làm giảm nhiệt trong khu vực. Ví dụ cụ thể là việc Trung Quốc vừa tái khẳng định giải quyết tranh chấp bằng thương lượng với Việt Nam vào ngày 26/06/2011. Nhưng nỗ lực ngoại giao đó sẽ chỉ làm Việt Nam xích lại gần Mỹ hơn, một khi Trung Quốc lại có hành động không tương thích với lời nói.

Phân tích trên đây cho thấy, cuộc chơi chèn ép chủ quyền song phương mà Trung Quốc tiến hành với nước nhỏ hơn trong vùng đã thay đổi về bản chất. Bây giờ, nó bị kết nối với cuộc chơi khác, nhằm xác định trật tự hàng hải giữa Trung Quốc và Mỹ, mà chủ yếu là xác định rõ quyền tự do lưu thông và an toàn hàng hải qua Biển Đông.

Trong cuộc chơi ghép nối - chèn ép chủ quyền và xác định trật tự hàng hải - việc Trung Quốc tôn trọng thỏa thuận ở cuộc chơi đầu sẽ tạo sự giảm nhiệt ở cuộc chơi sau. Cụ thể là nó làm giảm sự tranh giành quyền ảnh hưởng tại khu vực giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong hoàn cảnh đó, sự ổn định ở khu vực được duy trì: Việt Nam / Philippines không mất gì; Mỹ không can dự gì và Trung Quốc cũng không chiếm đoạt được gì về chủ quyền hay quyền tự do lưu thông hàng hải của các nước khác. (Theo ngôn ngữ của cuộc chơi chèn ép, các bên đều nhận 0 điểm).

Trong một lựa chọn khác, Trung Quốc có thể tiếp tục gây hấn, chèn ép Việt Nam / Philippines, bất kể hậu quả là phải đối mặt với Mỹ trong cuộc giằng co về ảnh hưởng khu vực và trật tự hàng hải. Vấn đề là, Trung Quốc có tham vọng lớn muốn siết chặt con đường biển chiến lược, mà hiện có tới 80 phần trăm dầu nhập khẩu của Trung Quốc và hơn 1/3 giá trị thương mại toàn cầu đi qua đó.

Tuy nhiên, một chiến lược tiếp tục gây hấn để kiểm soát sẽ không còn là lựa chọn tốt cho Trung Quốc, ít ra là vào bây giờ. Sức mạnh răn đe của Mỹ hiện đang chiếm ưu thế khiến cho Trung Quốc khó có thể gây ra một cuộc xung đột song phương, mà ngay lập tức có thể biến thành xung đột khu vực. Tổn thất về kinh tế do con đường hàng hải chiến lược bị phong tỏa và mất mát về ngoại giao do bị cô lập trong vùng có thể là quá lớn. Trong hoàn cảnh đó, có thể xem như Trung Quốc bị lùi một bước trong chiến lược lập trật tự mới trong vùng (mất 1 điểm).

Ngược lại, Mỹ sẽ được lợi khi dựa vào sức mạnh quân sự hiện có để duy trì trật tự hiện hữu và hưởng lợi từ quyền tự do và an toàn hàng hải ở Tây Thái Bình Dương. Nói khác đi, Mỹ thắng 1 điểm.

Nói như vậy để thấy, Mỹ sẽ không ngồi yên, nếu Trung Quốc gây hấn tới mức đe dọa sự ổn định khu vực và an toàn hàng hải. Nếu vậy, thì Trung Quốc cũng sẽ không thể gây hấn, nếu tính đến tổn thất phải trả. Trong tương quan đó, Việt Nam / Philippines sẽ phối hợp phòng thủ với Mỹ nếu có xung đột xảy ra với Trung Quốc. Tổn thất sẽ ít hơn nhiều so với ngồi yên để chịu Trung Quốc gặm nhấm dần chủ quyền của mình. Nói vắn tắt, chủ ý gây xung đột quân sự với Việt Nam như lời đe dọa trên tờ Hoàn cầu Thời báo là chưa có khả năng xảy ra.

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

KẾT QUẢ BẦU CỬ CÁC CHỨC DANH TẠI KỲ HỌP THỨ I, HĐND TỈNH DAK LAK KHÓA VIII, NHIỆM KỲ 2011-2016

I/ Thường trực HĐND
1 Niê Thuật, Chủ tịch HĐND:82/83/85=96,47%
2 Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch HĐND:76/83/85=89,41%
3 Nguyễn Thanh Hiệp, UVTT HĐND:77/83/85=90,58%
II/ Các Ban của HĐND
1 Ban Kinh tế ngân sách:
1.1 Nguyễn Ngọc Những, Trưởng ban: 81/82/85=95,29%
1.2 H Lim Niê, Phó Trưởng ban: 82/82/85=96,47%
2 Ban Văn hoá xã hội:
2.1 Võ Quang Tuyên, Trưởng ban: 82/82/85=96,47%
2.2 Võ Văn Cảnh, Phó Trưởng ban: 82/82/85=96,47%
3 Ban pháp chế:
3.1 Phạm Hát, Trưởng ban:82/82/82=96,47%
3.2 Nguyễn Thị Thu Nguyệt, Phó Trưởng ban: 80/82/85=94,12%
4 Ban Dân tộc:
4.1 Bùi Thị Kim Nga, Trưởng ban: 81/82/85=95,29%
4.2 H Mai Knul, Phó Trưởng ban: 82/82/85=96,47%!
III/ Thành viên UBND
1 Lữ Ngọc Cư, Chủ tịch UBND:59/83/85=69,48%
2 Y Dhăm Ênuôl, Phó Chủ tịch UBND:79/83/85=92,94%
3 Trần Hiếu, Phó Chủ tịch UBND:78/83/85=91,76%
4 Mai Hoan Niê Kdăm, Phó Chủ tịch UBND:77/83/85=90,58%
5 Đinh Văn Khiết, Phó Chủ tịch UBND: 75/83/85=88,23%
6 Y Phu Ê Ban, Ủy viên UBND: 83/83/85=97,64%
7 Trần Kỳ Rơi, Ủy viên UBND:83/83/85=97,64%
8 Nguyễn Văn Sự, Ủy viên UBND:82/83/85=96,47%
9 Nguyễn Thanh Nam, Ủy viên UBND: 82/83/85=96,47%
10 Võ Minh Sơn, Ủy viên UBND, 82/83/85=96,47%
11 Nguyễn Viết Tượng, Ủy viên UBND: 82/83/85=96,47%

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

Cao thủ võ Việt: Công phu đặc dị và khí phách Thăng Long Võ đạo (III)

Bài đăng trên 24h.com.vn

Năm 1989, báo giới đã đồng loạt đưa tin với một cái tít giật mình: “Hiện tượng võ thuật mới” hay “Một ngôi sao đã mới xuất hiện trên bầu trời võ thuật”… Nhân vật của các bài báo chứa đựng đầy sự kinh ngạc ấy là võ sư Nguyễn Văn Thắng, hiện đang là chưởng môn của môn phái lừng danh: Thăng Long võ đạo.



Ngày ấy, tại Đại hội võ thuật toàn quốc, với tiết mục Khẩu lợi công, ông đã làm cho cả giới võ lâm phải ngả mũ kính phục. Vóc dáng thư sinh, gày còm (nặng 52 kg) nhưng khổ luyện, với hàm răng như thép của mình, ông đã nâng bổng chiếc bàn bao gồm đỉnh đồng, nến, hạc, ảnh thờ… nặng tới gần 80 kg. Hơn 20 năm đã trôi qua, vị võ sư gây chấn động với công phu đặc dị năm xưa vẫn thế, vẫn vóc dáng thư sinh, vẫn kiểu đi lại, nói năng hoạt bát và vẫn phương châm sống: “Thần vượng không ham ngủ, khí vượng không ham ăn, tinh vượng không ham sắc”…

Đặc biệt hơn, ông vẫn gây bất ngờ bởi những công phu siêu đẳng của mình.

Người luôn thức dạy từ 3 giờ sáng
Nội công thâm hậu của võ sư Nguyễn Ngọc Nội (môn phái Vịnh Xuân) đã nức tiếng trong làng võ bấy lâu nay. Ông đã từng đăng đài, để mọi người thẳng tay đấm vào bụng mấy ngàn quả mà mặt chẳng hề biến sắc. Vậy nhưng, khi hỏi ông về những cao thủ trong làng võ, đặc biệt về nội công, ông đã không ngần ngại giới thiệu cái tên Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo. Theo võ sư Nguyễn Ngọc Nội thì sự nghiệp võ công của người đồng đạo Nguyễn Văn Thắng đang có những bước tiến bất ngờ.

Tuy có sự chỉ dẫn của võ sư Nội, nhưng vất vả lắm tôi mới gặp được ông bởi ông bận túi bụi tối ngày. Thời gian biểu cho một ngày làm việc của ông, ai thấy cũng đều phát hoảng. Một ngày của ông bắt đầu từ 3 giờ sáng. Khi ấy, tiết trời thanh mát, khí huyết lưu thông, ông lên sân thượng luyện khí công. Luyện khí đến 5 giờ, ông ra công viên Thống Nhất dạy khí công cho môn sinh cao tuổi. Bởi đang làm Chủ nhiệm khoa Giải phẫu bệnh lý (Bệnh viện Thanh Nhàn) nên 7 giờ, ông vội vã đến cơ quan. Làm việc đến 4 giờ chiều, ông về dạy thêm một lớp khí công ngay tại sân thượng nhà mình. Đến 7 giờ tối, lại tiếp tục dạy một lớp võ thuật cũng ngay tại sân thượng ấy.

Hoàng Phi Hồng của... Việt Nam

Võ sư Nguyễn Văn Thắng là chưởng môn đời thứ hai của Thăng Long võ đạo. Chưởng môn đời trước, cũng là sáng tổ của môn phái chính là cha đẻ của ông, võ sư nổi tiếng Nguyễn Văn Nhân. Nếu ai đã tận thấy những thế võ cận chiến tuyệt kỹ mà đặc công Việt Nam vẫn sử dụng để hạ gục đối phương trong chớp mắt thì có thể hình dung ra phần nào quyền cước siêu phàm của Thăng Long võ đạo bởi trước đây, lão võ sư Nguyễn Văn Nhân là thầy dạy của rất nhiều đơn vị đặc công.

Cho đến tận bây giờ, làng võ vẫn bảo, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân là người may mắn, bởi ông được thừa hưởng một “gia tài võ học” khổng lồ mà ông nội, ông ngoại của mình truyền lại. Ông nội cố võ sư là một võ tướng của triều đình nhà Nguyễn, nổi tiếng với Thiếu lâm nội gia, ông ngoại là cụ Cử Tốn, người chỉ nhắc tới tên, cao thủ khắp nơi đều phải chắp tay bái phục. Cụ Cử Tốn là cử nhân võ thuật cuối cùng của triều Nguyễn, khi giặc Pháp tấn công Hà Nội, cụ đã cùng Tổng đốc Hoàng Diệu tử thủ trong thành.

Sau này, khi Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Cử Tốn lui về ở ẩn tại khu làng ngay bên ngoài thành Hà Nội (phố Trần Quý Cáp bây giờ). Đau đáu nỗi nhục mất nước, cụ bí mật mở lò dạy võ, những mong, khi cơ hội đến lại cùng các môn sinh yêu nước của mình vùng lên chống giặc. Lò võ ấy một thời đã thu hút được rất nhiều những môn sinh ưu tú như Mùi Đen, Sáu Tộ (Sáng tổ môn phái Nam Hồng Sơn), Lý Đen, đặc biệt về sau này, người cháu ngoại của cụ, võ sư Nguyễn Văn Nhân, với những tinh hoa võ thuật học được từ cụ đã là rạng danh tiên tổ.

Cụ Cử Tốn nhiều giai thoại, hệt như Hoàng Phi Hồng bên Trung Quốc, tinh thần thượng võ luôn song hành với tinh thần ái quốc, thương dân. Bởi là nơi hội tụ những nhân vật kỳ tài, quân Pháp coi lò võ của cụ chẳng khác nào cái gai trong mắt.

Đả hổ kiểu Võ Tòng

Có lần chúng bày gian kế hãm hại cụ đến mù hai mắt. Không chịu khuất phục, cụ vẫn bí mật truyền dạy võ công cho những đệ tử yêu nước của mình. Bất lực, giặc Pháp viện đến một âm mưu quỷ quyệt, ấy là dùng giới võ lâm để triệt hạ lão võ sư cứng đầu ấy.

Chúng dựng võ đài, loan báo khắp Đông Dương rằng, võ sư nào đánh hạ được thày trò Cử Tốn thì sẽ được trọng thưởng Bắc Đẩu bội tinh và được trọng đãi hậu hĩnh sau này. Âm mưu ấy là vô cùng thâm hiểm, sẽ gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn, đồng thời, bởi ham mê danh lợi, nhiều người đã “bỏ quên” tinh thần yêu nước, xoay mũi giáo vào chính… người nhà.

Hiểu rõ âm mưu ấy, cụ Cử Tốn hết đỗi phân vân. Thượng đài thì khác nào mắc mưu quân cướp nước, không thượng đài thì môn phái ô danh, quần hùng khinh rẻ. Sau cùng, cụ đã nghĩ ra được một kế sách vẹn toàn.

Ngày ấy, ở sở thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi vô cùng hung dữ. Con hổ to lớn, hễ thấy người là lồng lên, bổ nhào lên chuồng thép như muốn ăn sống nuốt tuơi. Cụ Cử Tốn muốn môn sinh của mình diễn lại tích “Võ Tòng đả hổ” ngay trước mắt quần hùng để tạo thanh thế. Người được cụ chọn sắm vai Võ Tòng là võ sư Mùi Đen, một đệ tử có thân hình vạm vỡ.

Đúng hôm đăng đài, quần hùng tụ tập mấy vòng xung quanh cùng đám sĩ quan Pháp và bè lũ sai nha, cụ Cử mới nói rõ lý do tại sao lại thay màn tỉ thí võ công bằng màn đả hổ. Nghe cụ nói, tất thảy đều cúi đầu im lặng, và nín thở chờ xem màn quần thảo mà mới đầu ai cũng cho là chơi dại ấy.

Sau một hồi trống rộn rã, hai chuồng cọp đã được mấy chục người khiêng ra, đặt ở hai đầu võ đài. Phía bên trái là chuồng con cọp đực cụt đuôi đang gầm lên những tiếng kinh hồn, bên phải là con cọp cái cũng đang nhe nanh, giương vuốt gầm gừ trông vô cùng dữ tợn. Mùi Đen thượng đài, trông vô cùng hùng dũng.

Cứ thế, trước sự kinh hãi của mọi người, ông thủng thẳng vào mở cửa chuồng con cọp đực. Hai bên quần thảo vô cùng ác chiến, sau một giờ, bằng một đòn chí mạng, ông đã bẻ gãy cổ con mãnh thú khát mồi ấy. Chẳng cần nghỉ ngơi lấy sức, túm gáy “kẻ thua cuộc”, ông vác sang chuồng con cọp cái. Lại một màn kịnh chiến kinh hoàng diễn ra.

Và, cũng chừng ngần ấy thời gian, con cọp cái đã bị ông bẻ gãy bốn chân, nằm phủ phục, rên những tiếng thảm thiết. Phía dưới, quần hùng không ngớt vỗ tay tán thưởng và nể cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử, chẳng ai còn dám thượng đài nữa. Thực dân Pháp thì được một phen muối mặt, rẽ đám đông đang hân hoan với những lời tán dương không ngớt chuồn thẳng.

Trốn nã bởi đánh võ đài

Thụ giáo những tinh hoa võ công từ hai bên nội, ngoại, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân đã nhanh chóng bộc lộ, và phát huy năng khiếu võ học thiên bẩm của mình. Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể, ngay trước Cách mạng tháng 8, tuổi mới đôi mươi, cha ông đã là một thầy võ nổi tiếng ở Hà Nội.

Thanh niên, bởi còn sốc nổi, cha ông cũng hay đi đánh đả lôi đài. Thời ấy, đa phần các võ sĩ thượng đài ra lời thách đấu đều do giặc Pháp giật dây, vậy nên các trận đấu đều vô cùng kinh hãi. Kẻ thua trận nhẹ thì tàn phế, nặng thì bỏ mạng ngay tại võ đài. Bởi thế, hầu hết các võ đài mà giặc Pháp dựng lên thời kỳ ấy bên cạnh người võ sĩ thách đấu là chiếc quan tài được làm từ mây trông rất đẹp.

Ai thua, tử trận thì nằm luôn vào chiếc quan tài ấy. Một lần thượng đài, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Nhân đã vô tình quá tay, đánh trọng thương một võ sĩ đã đăng đài cả tháng mà chưa ai đánh hạ.

Theo lời võ sư Thắng thì ngày ấy, sau cú ra tay hơi mạnh đó, cha ông bị chính quyền thực dân truy nã. Sợ hãi, ông đã bỏ trốn biệt tích. Sau ba tháng, nhớ nhà, ông về, nhưng chẳng dám vào nhà. Ông trèo lên cây bàng cổ thụ ngay gần nhà mà nhìn vào trong, nhìn ngó mọi người. Năm 1944, ông theo cách mạng.

Tuần lễ vàng do Cụ Hồ phát động, ông đã đem tài nghệ của mình ra để biểu diễn quyên tiền cứu giúp nhân dân. Đất nước thống nhất, với những tinh tuý võ công mà mình đã được học, tinh luyện những phương pháp luyện tập võ thuật phù hợp với thể trạng người Việt, ông đã sáng lập ra môn phái Thăng Long võ đạo.

Võ sư Văn Thắng kể, ông được cha mình truyền thụ võ công từ năm 12 tuổi. Bởi là sĩ quan quân đội nên cha ông dạy võ cho ông theo kiểu… kỷ luật thép. Bây giờ, ông vẫn nhớ như in cái buổi đầu học võ… khổ sai ấy.

Trong gian nhà bếp chật hẹp, năm đầu, cha ông chỉ dạy ông duy nhất một môn… đứng tấn. Tháng đầu tiên, cha ông bắt ông mỗi buổi phải đứng tấn khi que hương cháy hết 1/3 mới thôi. Tháng thứ hai tăng lên là 1 nửa, tháng thứ 3 là cả que nhang. Đứng im, không nhúc nhích. Hễ động đậy là ngay lập tức chiếc roi trong tay cha vút lên, đau điếng. Hết đứng tấn dưới đất lại đứng trên cọc nhọn, sau một năm thì chuyển sang Ngoại ngạch công.

Cha ông bắt ông treo ngược chân lên xà, rồi cứ thế, ngửa cổ xuống dưới nhấc những xô đá đổ lên xô to phía trên. Xô đá mỗi lúc một đầy, một nặng thêm theo thời gian mà cha ông đã định sẵn. Hai năm, khi thân hình đã dẻo dai, cứng cáp ông mới được cha mình truyền thụ quyền cước.

Đi tìm thiên hạ đệ nhất võ Việt (kỳ 2)

Bài đăng trên 24h.com.vn

Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, hôm nghe tin con trai mình mất, ông chết điếng và cả mấy tháng sau, cứ thấy mình như đi trên mây khói.


Cha con “ông Ốc” và nghiệp võ “một thời vang bóng”

Ông hệt như Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, một nhân vật võ công cái thế, tóc bạc như cước nhưng lúc nào cũng hồn nhiên như trẻ nhỏ trong tiểu thuyết nổi tiếng Thần điêu đại hiệp của Kim Dung. Từng nổi danh với vai Ốc trong vở tuồng kinh điển Nghêu- Sò- Ốc- Hến, lại thêm cái vẻ hóm hỉnh ngoài đời nên ít ai có thể ngờ rằng ông lão có vóc người nhỏ bé tuổi ngoại bát tuần ấy lại là chưởng môn của môn phái một thời lừng danh, môn phái Bình Định Gia.

Ông là võ sư Trần Hưng Quang, giang hồ thường gọi là Quang “Ốc”, hay còn gọi thân mật là “ông Ốc”, trong giới võ lâm bây giờ, ông được suy tôn vào hàng trưởng lão. Những năm 90 của thế kỷ trước, đặc biệt khi người con trai Trần Hưng Hiệp tài năng thiên bẩm của ông còn sống, võ phái Bình Định Gia là mái nhà chung của cả vạn môn sinh đam mê quyền cước…

Lão võ sư Trần Hưng Quang là người nghiện thuốc lá. Thuốc Thủ đô ngày ông đốt đến cả bao. Ông bảo, người luyện võ thì phải kiêng tất cả những chất kích thích, ông cũng thế nhưng thuốc lá thì không tài nào bỏ được. Bởi thế, ở võ đường Việt- An, (sân trường Việt Nam- Angiêri, đường Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội) dù đám môn tối nào cũng rộn rã những tiếng la hét, tiếng dậm chân huỳnh huỵch, tiếng binh khí va vào nhau loảng xoảng thì trên thềm, ông vẫn ngồi đăm chiêu với điếu thuốc trên tay.

Tuy ngồi bất động như thiền nhưng ánh mắt quắc thước của ông vẫn dõi theo từng động tác của đám học trò. Hễ ai tập sai, như điện giật, ông bật dậy, hấp tấp chạy tới, lúc la hét, khi ngọt ngào uốn nắn. Xong việc, ông lại thong thả bước lên thềm. Lại thả hồn theo làn khói trắng.

Ông quê gốc ở Bình Định. Theo đồng đạo võ lâm thì ông là người duy nhất đưa võ cổ truyền Bình Định bắc tiến thành công. Nói về võ phái của mình, ông bảo, cách đây trên 200 năm, cụ Trần Đại Chí, sáng tổ của môn phái, vốn là một võ tướng, võ công đệ nhất, thao lược tài danh, bởi mâu thuẫn với nhà Thanh mà chạy dạt sang đất Việt.

Theo gia phả của dòng họ thì thủa nhỏ, cụ Chí được gia đình gửi vào Thiếu Lâm học võ. Hơn chục năm trời theo thầy miệt mài với thập bát ban, thành thạo, cụ lai kinh những mong đem chút tài mọn phụng giúp quốc gia, vinh danh dòng họ. Thế nhưng, Mãn Thanh vào buổi suy tàn, bất mãn, mâu thuẫn trong việc triều chính, cụ đã đưa cả gia quyến xuôi về phương Nam.

Nơi đầu tiên cụ đặt chân tới là đất Thăng Long, nhưng ngày ấy, kinh kỳ hỗn loạn, chẳng thể náu thân an toàn, cụ dạt vào Bình Định. Tại đây, duyên kỳ ngộ, cụ đã kết bạn với võ tướng Võ Văn Dũng, một trong những tướng tài của vua Quang Trung, từng nhiều phen vào sinh ra tử trong sự nghiệp đại phá quân Thanh.

Tri kỷ, hai người suốt ngày trà dư tửu hậu, bàn luận chuyện võ học tinh hoa. Và, những ngày tháng ấy, hai người đã trao đổi cho nhau tất cả những bí kíp võ công mà cả đời mình tầm sư học được. Qua cụ Dũng, cụ Chí đã lĩnh hội được toàn bộ võ công chân truyền của Bình Định, đồng thời, nhờ cụ mà cụ Dũng đã thông tuệ võ học Trung Hoa.

Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu, chắt lọc, tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam, sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương, nhu, trường, đoản, hư, thực.

Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu, không nặng về biểu diễn khoa trương. Theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì võ phái mà sáng tổ Trần Đại Chí sáng lập suốt mấy trăm năm chỉ truyền thụ cho con cháu trong dòng họ, tuyệt nhiên không phát lộ ra ngoài. Qua mấy đời chưởng môn (Trần Đại Chí, Trần Đại Si, Trần Đại Xy, Trần Đại Y) đến đời ông (chưởng môn thứ 5) thì Bình Định Gia mới thực sự là môn phái được đông đảo quần hùng biết đến.

Võ sư Quang bảo, nghiệp võ với ông cũng hệt như… thuốc lá. Đã “dính” vào rồi thì không thể nào dứt ra cho được. Tuổi lên 10, ông được cha mình truyền thụ võ nghệ. Ông kể, ngày ấy, học võ gian nan lắm.

Cha ông là người nghiêm khắc, lại thêm quan niệm, học võ là để giữ gìn gia phong nên ông phải khổ luyện tối ngày. Đến năm 13 tuổi, với tư chất lanh lẹ, tinh tuý của phái võ gia truyền đã được ông cơ bản lĩnh hội. Tuy không muốn để lộ khả năng võ thuật của mình nhưng tiếng tăm về cậu bé anh hùng xuất thiếu niên ở Phú Cát là ông vẫn ngày một vang xa.

Tiếng lành ấy kinh động đến cả phủ quan, bởi thế, rất nhiều lần, họ triệu tập ông đến chỉ với mục đích được thực mục sở thị ông thi triển quyền cước. Năm 14 tuổi, biết đã hết “vốn” để dạy cho đứa con khiếu võ, cha ông bắt đầu hành trình tìm thầy để mở rộng khả năng cho con mình.

Gần chục năm dòng, hễ thầy nào có tiếng ở Bình Định thì cha ông đều dắt ông tới học. Chỉ một vài năm, thậm chí vài tháng thì lại lên đường đi tìm thầy mới. Bây giờ, một trong những giai thoại tầm sư học đạo của ông vẫn được người Bình Định truyền tai nhau.

Ngày ấy, thầy Hà Trọng Sơn ở Phước Sơn (Tuy Phước) có môn song kiếm thuộc loại tuyệt kỹ, mỗi khi đường kiếm vung lên thì chẳng khác nào phượng múa rồng bay. Nhu cương hài hoà, mềm mại nhưng sự lợi hại thì kinh hồn bạt vía. Độc chiêu ấy, dù đệ tử rất đông, nhưng không ai lĩnh hội vẹn toàn. Theo cha, ông đến và thật ngạc nhiên, chỉ sau ít bữa “ăn nhờ ở đậu”, ông đã “nuốt gọn” nhẹ nhàng. Thậm chí, trong đường kiếm ông đi, có nét nhàn nhã, thảnh thơi chẳng khác gì diều bay giữa trời quang đãng.

Thanh niên, tuy tạng người nhỏ bé, nhưng cũng như bao người luyện võ khác ở Bình Định, ông mải mê với sở thích đi đánh võ đài. Ông kể, thủa ấy, ở Bình Định, bất cứ làng võ nào cũng có võ đài. Người luyện võ thường đăng đài thi thố tài năng, đấu võ để kết bạn, để trau dồi kiến thức. Lần thượng đài nào ông cũng giành cho mình phần thắng.

Đến giờ, người mê võ ở Bình Định hẳn chưa thể nào quên trận thư hùng kinh điển giữa ông và võ sĩ Đào Duy Hạ tại Quy Nhơn.

Trận đấu diễn ra dưới sự cổ vũ cuồng nhiệt của cả mấy trăm người. Hai ông giao kèo đánh 3 hiệp, mỗi hiệp là 1 phút rưỡi. Trong 3 hiệp ấy, ai rớt đài trước thì là người thua cuộc. Vào trận, tuy đã mặc khác màu áo nhưng bởi chiêu thức được tung ra quá nhanh nên khán giả vẫn không thể phân biệt được đâu là ông Hạ, đâu là ông Quang. Ba hiệp đấu trôi qua, cả hai võ sĩ đều thở dốc mà vẫn chưa phân thắng phụ. Đó là trận đấu duy nhất ông gặp đối thủ ngang tài ngang sức.

Ông theo nghiệp tuồng, cũng là một “tài sản” gia truyền. Và, trong cuộc đời nghệ sĩ của mình, ông đã ghi dấu ấn bởi đã đưa võ vào tuồng. Năm 1980, nghỉ hưu, ông về Hà Nội sinh sống. Suốt mấy chục năm sống xa nhà, vào nam ra bắc, ngay chuyện đi tàu của ông cũng có lắm giai thoại. Một lần, bởi khi ra đến nhà ga thì tàu đã chuyển bánh.

Bế hai con nhỏ trên tay, túi khoác trên lưng, ông cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Khi vừa theo kịp thì cửa toa tàu đã đóng im ỉm từ lúc nào, gọi mãi mà chẳng thấy ai mở. Quá cấp bách, chẳng còn cách nào khác, ông đành sử dụng luôn món “Thiết đầu công” mà mình đã khổ công rèn luyện. Cú húc như trời giáng ấy đã làm cánh cửa sắt bật tung. Vẫn ôm con trên tay, ông vọt lên tàu một cách nhẹ nhàng.

Năm 1982, Bình Định Gia chính thức có mặt ở Hà Nội. Ông kể, hồi ấy, buổi sơ khai, võ phái của ông ít người biết đến. Nhưng chỉ một lần kéo đệ tử lên CLB võ thuật quận Đống Đa biểu diễn, võ phái của ông đã làm những quan chức của Sở Thể dục- Thể thao Hà Nội mê mệt. Và, ngay lập tức họ đã mời ông tham gia Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội.

Gặp lão võ sư mấy lần, nhưng đến giờ, trong sâu thẳm những nghĩ suy của ông, nhiều lúc tôi vẫn chưa hiểu được. Trong con người ông, niềm vui, sự hóm hỉnh lúc nào cũng thường trực, nhưng nỗi buồn phiền, thểu não thì cũng ở rất gần.

Nhiều môn sinh của ông kể, trong lúc dạy học trò, thăng hoa, một mình giữa trời ông biểu diễn luôn một tiết mục tuồng khiến mọi người cười ngặt nghẽo. Thế nhưng, có lúc, đang nói cười tếu táo, bỗng dưng nhớ tới người con, cũng là người học trò cưng quá cố, võ sư Trần Hưng Hiệp, ông lại nước mắt nghẹn ngào.

Mà bây giờ, khi tuổi đã về già, cái sự tiếc thương ấy nó đến thường xuyên lắm. Bất cứ cái gì gợi cho ông nhớ đến con mình, đều khiến ông xúc động. Võ sư Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo kể, một buổi đi sinh hoạt ở Liên đoàn võ thuật Hà Nội, gặp lão võ sư, vô tình ông khoe, ông vừa tìm thấy một tấm ảnh ông chụp chung với Hiệp.

Chỉ nghe đến đó thôi, ngay lập tức lão võ sư lại khóc, lại ngồi thảm thiết nhớ về những kỷ niệm của con mình. Ông có 3 người con, 2 trai một gái. Cố võ sư Trần Hưng Hiệp là thứ hai. Với ông thì dường như Hiệp sinh ra là để học võ. Ông kể, ngay từ tấm bé, ông đã phát hiện ra năng khiếu võ thuật thiên bẩm của cậu con trai mình. Bởi thế, những bài quyền, thế cước ông rèn cặp, Hiệp đã lĩnh hội rất nhanh.

Nối nghiệp cha, Hiệp cũng theo học môn Tuồng cổ ở trường Sân khấu- Điện ảnh và dốc toàn bộ thời gian còn lại vào việc luyện rèn võ thuật. Thời gian ấy, hễ nghe tiếng ở đâu có thầy giỏi là ngay lập tức anh tìm đến bái sư theo học. Bởi thế, khi tuổi mới đôi mươi, vốn liếng võ công của anh đã được võ lâm đồng đạo bái phục, kính nể và trở thành vị võ sư trẻ tuổi nhất trong làng võ cổ truyền. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, nhờ có Hiệp mà Bình Định Gia trở nên nổi tiếng, được đông đảo môn sinh theo học, quần hùng mến mộ.

Tuổi trẻ, võ công cái thế, nhưng tính Hiệp điềm đạm, trầm tĩnh, sống nội tâm. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, có lần, trong khu nội trú trường Sân khấu- Điện ảnh, có nhóm đầu gấu bên ngoài vào trường quậy phá, bắt nạt sinh viên. Không muốn va chạm nhưng cũng chẳng thể ngồi yên, Hiệp đành ra mặt.

Chọn tên có vẻ gấu nhất, anh mời vào phòng mình nói chuyện. Thấy cậu sinh viên người nhỏ bé, mặt mũi thư sinh, vị khách mời không những không tiếp thu những lời phải quấy mà còn tỏ thái độ thách thức, chửi bới om xòm. Biết không thể nói suông với kẻ không biết điều ấy, đứng phắt dậy, Hiệp bảo: “Nếu anh thích đánh nhau thì đánh nhau với tôi! Nhưng cho tôi hỏi, chân tay anh liệu có cứng bằng chiếc chân giường này không?”.

Hỏi chưa dứt câu, bất thình lình anh tung chân đá quét. “Dính chưởng”, chiếc chân giường vuông thành sắc cạnh gẫy gập làm đôi, văng ra phía cửa. Nhìn thấy cảnh ấy, “kẻ đầu gấu” mặt cắt không ra máu, ú ớ lùi ra rồi hô lũ đàn em chuồn thẳng. Sau này, bởi ấn tượng với võ công thâm hậu và tinh thần thượng võ ấy, gã đầu gấu đã tìm đến anh, bái làm sư phụ, tu chí luyện rèn võ nghệ.

Cũng trong thời gian ấy, một chiều đi học về, gặp người quen, anh được mời vào quán uống bia. Bàn bên cạnh, mấy gã đã ngà ngà, nói năng toàn lời tục tĩu. Hết chuyện, thấy bàn bên cạnh có cậu trai cứ ngồi im, chẳng nói chẳng rằng (anh không uống được bia) thì lấy làm… ngứa mắt. Chúng buông lời bóng gió cợt nhả, rồi cười hô hố với nhau.

Thấy vậy, anh quay đi, chẳng thèm để ý. Sự phớt lờ của anh khiến chúng càng thêm tức tối, ỉ đông, chúng quay sang gây sự. Mấy “chiến hữu” cùng bàn với anh ai cũng nóng mắt, nhưng thấy “quân ta” yếu thế hơn nên chẳng ai dám động thủ. Trấn an các bạn, anh đứng dậy quay sang bàn bên.

Giơ cốc bia đang uống dở lên, hướng về phía đối phương, anh bóp mạnh. Chiếc cốc vỡ vụn, phát ra những âm thanh sởn ga gà. Chưa dừng lại, tay phải anh tung luôn một cú thôi sơn vào bức tường kiên cố ngay bên cạnh. Cú đấm uy lực, thấy đã gặp phải cao thủ, biết có đông cũng đánh không lại, nhóm anh chị bàn bên bỗng im phăng phắc. Phía bên này, sau những cú thị uy ấy, Hiệp lại chậm rãi ngồi xuống uống bia như chẳng có chuyện gì.

Cho đến bây giờ, võ lâm đồng đạo vẫn suy tôn Linh giác công của Trần Hưng Hiệp là thiên hạ đệ nhất, không ai bì kịp. Biểu diễn tuyệt chiêu này đòi hỏi người võ sư phải có công lực thượng thừa và cái tâm luôn tĩnh. Với tuyệt chiêu này, đã nhiều lần Hiệp làm người xem thót tim vì sợ.

Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, khi biểu diễn Linh giác, Hiệp thường đặt quả cam, táo, hoặc một mẩu thân chuối dài chừng gần chục cm lên đỉnh đầu người đối diện. Sau ấy, bằng mảnh vải đen, anh bịt kín mắt mình, tay cầm kiếm sắc, từ từ tiến tới. Mắt bịt kín, nhưng bằng giác quan, anh vẫn xác định được vị trí của mục tiêu và vung kiếm chém tới.

Dù chém ngang, hay dọc thì đường kiếm ngọt ngào ấy cũng chỉ phạt đôi vật thể trên đầu chứ chẳng mảy may làm tổn thương một cọng tóc của người trợ diễn. Ngay cả lão võ sư, đã nhiều lần xem con mình biểu diễn, nhưng lần nào ông cũng… hoảng. Ông cấm con mình tuyệt đối không được dậy chiêu thức nguy hiểm ấy cho ai. Dặn con vậy không phải vì ông muốn giữ độc chiêu cho gia đình mình mà vì sợ. Đám học trò hiếu động, học chưa đến nơi đến chốn, chém phạt đầu nhau thì vô cùng nguy khốn.

Tuy quá nổi danh với Linh giác công nhưng sau này, mọi người đã không được thấy anh biểu diễn tuyệt chiêu này nữa. Nguyên nhân, theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì con ông là người cẩn trọng, không bao giờ thích chuyện phiêu lưu hay những trò chơi nguy hiểm. Bởi thế, một lần, diễn Linh giác bị hỏng, anh đã quyết tâm từ bỏ sở trường này.

Lần ấy, Bình Định Gia tổ chức biểu diễn ở Nhà văn hoá huyện Từ Liêm. Tiết mục Linh giác trứ danh của Hiệp được toàn thể khán giả đón đợi. Lần thứ nhất, quả táo Tầu nhỏ xíu trên đầu người trợ diễn đã bị anh chém toác đôi. Nhiều người kinh hãi không dám nhìn nhưng cũng nhiều người ưa cảm giác mạnh, muốn anh diễn lại. Không thể chối từ thịnh tình của người mến mộ, anh lại bịt băng đen che mắt, lại tiếp tục diễn trò.

Thế nhưng, khi thanh kiếm sáng loáng trong tay vừa vung lên thì anh bỗng khựng người lại, buông kiếm xuống. Tiếp tục một lần nữa cũng vẫn vậy, thanh kiếm trên tay anh chẳng thể lượn một đường ngọt sớt như nó vẫn thường thi triển, vẫn làm người xem kinh hãi. Có lẽ, linh giác đã mách bảo anh rằng, trong một tâm trạng không được thoải mái, anh không nên dụng trò nguy hiểm ấy.

Đắn đo, sau cùng, anh đã xin lỗi khán giả và thay bằng việc đặt quả táo lên đầu người trợ diễn thì anh đặt quả táo lên thành ghế. Nhát kiếm chí tử được tung ra. Quả táo bị chém phạt phần dưới, tung lên rồi lăn lông lốc trên sàn nhà. Mọi người vẫn vỗ tay dầm dập. Thế nhưng, trên mặt anh vẫn không thấy nụ cười. Chào khán giả, anh vội vàng lùi vào phía trong.

Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, về nhà, con trai ông đã kể cho ông “sự kiện lạ lùng” ấy. Và, anh còn tiết lộ, hàng đinh đóng trên thành chiếc ghế đã bị anh chém bay hết mũ. Nếu hôm ấy, nếu là người thật thì không biết hậu quả thế nào. Vậy là, nghe theo lời khuyên của ông, cùng với tính cẩn trọng của mình, anh đã từ bỏ môn võ mà mình đã khổ công rèn luyện.

Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, hôm nghe tin con trai mình mất, ông chết điếng và cả mấy tháng sau, cứ thấy mình như đi trên mây khói.

Huyền thoại những đệ nhất võ lâm trời Nam (kỳ 1)

Bài đăng trên 24h.com.vn

Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Sống dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quãng thời gian mà tinh thần thượng võ bị triệt tiêu tới mức tối đa (phòng ngừa phản kháng), họ đã là cầu nối, đã bôn ba khắp nơi để tầm sư, rèn võ, cứu rỗi cả nền võ thuật Việt Nam trong buổi suy tàn. Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ nhưng tài đức của họ thì vẫn là tiếng thơm để hậu bối noi theo...


Đệ nhất roi Hồ Ngạch và hai lần đánh cướp Dư Đành
Luận về võ công, không thể không nhắc đến đất võ Bình Định, cụ thể hơn là những địa danh như Thuận Truyền, An Vinh, An Thái. Những địa danh trên đã đi vào ca dao, huyền thoại bởi là nơi phát tích, “nuôi nấng” những dòng võ cũng như những võ sư danh trấn thiên hạ.

Đến giờ, tại nơi nghĩa quân Tây Sơn dấy binh đánh đuổi quân thù ấy vẫn còn truyền tụng những câu tục ngữ nói về tinh thần thượng võ của những địa danh này. “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” hay “Trai An Thái, gái An Vinh”… Thôn Thuận Truyền nằm ở xã Bình Thuận, thôn An Vinh thuộc xã Bình An (quận Bình Khê), An Thái thuộc xã Nhơn Phúc huyện An Nhơn, giờ vẫn tồn tại rất nhiều những lò võ nức tiếng xa gần.

Roi Thuận Truyền không rõ sáng tổ là ai nhưng từ trước đến nay vẫn tôn vinh tên tuổi của võ sư Hồ Ngạch. Hồ Ngạch tên thật là Hồ Nhu, ông sinh năm 1891, mất năm 1976, nguyên quán thôn Háo Ngãi, xã Bình An, sinh sống tại thôn Thuận Truyền, Bình Thuận. Cha ông là Đốc Năm (Hồ Đức Phổ), một võ quan của triều đình Huế, mẹ ông bà Lê Thị Huỳnh Hà, cũng là một người nức tiếng giỏi võ trong vùng.

Cố võ sư Hồ Ngạch

Bởi thế, ngay từ nhỏ, ông đã được cha mẹ truyền dạy võ công. Lớn lên, ông được gia đình gửi vào lò võ của cao sư Ba Đề, tiếp đến là Đội Sẻ, Hồ Khiêm, toàn những người nổi tiếng. Bởi thế, từ những đường roi của các cao nhân như Ba Đề, Hồ Khiêm kết hợp với nội công học được từ thầy Đội Sẻ đã tạo ra một Hồ Ngạch với những đường công biến hoá, sâu hiểm khôn lường. Theo sự truyền tụng của giới võ lâm khi ấy, đường roi của Hồ Ngạch là tuyệt kĩ vô song. Sau hơn chục năm lăn lộn với côn, quyền tiếng tăm của Hồ Ngạch ngày một vang xa hệt như diều gặp gió.

Hồ Ngạch vốn trầm tĩnh, ít nói và đặc biệt, ông không bao giờ để lộ tài năng võ thuật của mình. Tuy thế, trong đời luyện võ của mình, ông đã để lại rất nhiều giai thoại, đó là những trận so tài với các cao thủ võ lâm có một không hai.

Có lẽ, hữu xạ tự nhiên hương, bởi danh tiếng lẫy lừng, nên Hồ Ngạch thường được những người học võ tìm đến để thi thố tài nghệ. Dân Bình Định đến giờ vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện Hồ Ngạch bị các cao thủ khiêu chiến, thậm chí cả “đánh úp” hết sức lạ lùng. Các cao nhân thử tài với Hồ Ngạch thì nhiều lắm, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những trận thư hùng với lực sĩ Dư Đành.

Dư Đành là tướng cướp, về võ công thì đến cả quân lính triều đình khi nghe thấy tên cũng đã hồn xiêu phách tán. Tung hoành khắp vùng không có đối thủ, nghe tiếng Hồ Ngạch, Dư Đành nhiều lần gửi lời khiêu chiến. Chối từ mãi không được, sau cùng Hồ Ngạch cũng phải nhận lời thách đấu. Lần ấy, Dư Đành đem lũ lâu la về tận Thuận Truyền và hống hách đưa ra điều kiện, nếu Hồ Ngạch đấu thua thì phải ra nhập đảng cướp của y.

Vậy là, tại bãi vắng ngay sát thôn Thuận Truyền đêm ấy, một mình Hồ Ngạch đã đánh bại cả chục tên đệ tử của Dư Đành, vốn đều là những cao thủ võ lâm. Khi đám tay chân mỗi tên nằm một góc thì Dư Đành xuất hiện. Phải nói thêm rằng, Dư Đành có sức mạnh chẳng ai sánh kịp. Đã có lần, để diễu võ dương oai, một tay y đã cắp cả một con nghé hệt như người ta nhẹ nhàng bồng trên tay đứa trẻ. Với thanh đao sáng loáng trên tay, vừa xuất hiện là Dư Đành tung đòn tới tấp. Thế nhưng, với đường roi thượng thừa của mình, Hồ Ngạch cũng chẳng hề nao núng. Đánh mãi mà vẫn không tìm được kẽ hở để “ăn sống nuốt tươi” đối phương, Dư Đành thấy máu nóng dồn lên mặt.

Và khi ấy, Hồ Ngạch đã ra đòn tuyệt kỹ. Tránh đòn truy hồn của đối phương, ông nhẹ nhàng tung người đá văng thanh đao cắm xuống đất, đồng thời xoay người giở đòn đánh nghịch. Biết đã vào thế hiểm, tiến thoái lưỡng nan, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành đã thở phào choàng tỉnh bởi đường roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa.

Trận thư hùng ấy, dù đã nợ Hồ Ngạch một mạng nhưng Dư Đành vẫn không chịu phục. Y rắp tâm kiếm cơ hội trả thù. Bởi thế, một chiều, đang mải mê với những chiêu thức võ thuật thì Hồ Ngạch được mọi người báo tin không biết ai đã đến nương sắn nhà mình và nhổ hết sắn đóng vào những giỏ lớn. Điều lạ lùng là tất cả số sắn đó, kẻ trộm không lấy mang đi mà vẫn để nguyên trên rẫy. Hồ Ngạch đâu biết rằng đó là một âm mưu của Dư Đành.

Ra rẫy, thấy sắn bị nhổ, chẳng còn cách nào khác, Hồ Ngạch đành phải quẩy những sọt sắn trĩu nặng ấy về. Vừa đi được một đoạn thì từ bụi cây bên đường, Dư Đành vọt ra với chiếc bắp cày trên tay. Chẳng nói chẳng rằng, y tung luôn một đường sát thủ. Nghe tiếng gió, Hồ Ngạch vội thụt xuống, đường cày vụt qua đầu, văng thẳng vào cây bồ lời làm thân cây gẫy gập.

Lợi dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ Ngạch tức tốc áp sát, nhanh như chớp, chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng thế lạc côn, không những hoá giải mà còn biến sức đối phương thành lực của mình, hất thẳng Dư Đành xuống bụi tre gần đó. Mắc kẹt giữa đám tre gai góc, lúc ấy, Dư Đành mới khẩn khoản xin tha và hứa từ đó không bao giờ dám về làng Thuận Truyền quậy phá nữa.

Tỉ thí võ thuật Nam Hàn vinh danh làng quyền cổ

Sáng tổ của làng quyền An Vinh là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Bởi thế, Nguyễn Ngạc xuất thân trong một gia đình có truyền thống võ học.

Tiếp thu sở học của gia đình cũng như nhiều tiền nhân lúc bấy giờ, chuyên tâm nghiên cứu quyền pháp, Nguyễn Ngạc đã sáng tạo ra nhiều tuyệt kỹ điêu luyện, đặc biệt là ngón song xỉ đã nức danh khắp chốn. Quyền An Vinh thiên về đánh hiểm, đánh móc, đánh không hết tay, phản đòn nhanh, liên tục. Khi đánh, thường phải áp sát đối phương mới tìm được lợi thế cho mình. Nguyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú, tiếng tăm lừng lẫy. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ…

Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ, sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo. Năm 1935, Bảy Lụt cùng em mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn sinh khắp nơi biết đến.

Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy, nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ, người gốc Bình Nghi (Tây Sơn) người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn phái quyền An Vinh.

Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông bảo, ông là người may mắn bởi được sinh ra ở cái nôi của võ thuật Tây Sơn. Mê võ, thủa thiếu niên, đã nhiều lần ông xin gia đình bán ruộng, bán bò để quyết chí theo đuổi sở thích của mình. Ông được lĩnh hội võ thuật cao siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông học từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ, lăn khiên, chuỳ… ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước, xích, độc bút, xà mâu, đinh ba… ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch.

Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông được thầy Bảy Lụt dày công dạy dỗ. Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võ sư Phan Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng.

Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa. Năm 1972, một võ sư taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã tìm đến ông gửi lời khiêu chiến. Bị “áp đáo tại gia”, dù mến khách nhưng không có cách nào khác, ông phải nhận lời.

Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc, Phan Thọ cúi người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành… nạn nhân bất đắc dĩ. Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển. Thủ thế đến chiêu thức thứ ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chảo chớp của mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo, hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng soài ngay góc nhà.

Và, đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục. Tuổi xưa nay hiếm nhưng lão võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi ấy, năm 1998, một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc lại tìm đến nhà ông. Họ cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp như taekwondo nước họ.

Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng với khi đã chạm đến lòng tự hào dân tộc, lão võ sư lại sắn áo “thượng đài”. Lợi dụng sức trẻ, võ sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mang vữa tường rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ chớn. Chỉ chờ có vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đòn ấy, đám khách không mời đã phải chắp tay: “Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền!”.

Long tranh hổ đấu

Năm 1924, làng võ Bình Định xuất hiện thêm một dòng võ mới đó là quyền Tàu. Người sáng lập ra dòng võ này là Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An Thái. Tuy là người Trung Quốc nhưng gia đình Diệp Trường Phát sinh sống ở An Thái đã được mấy đời.

Hấp thụ tinh thần thượng võ từ An Thái, 13 tuổi, Diệp Trường Phát được gia đình gửi về Trung Quốc để học võ từ các cao sức của Thiếu lâm Bắc phái. Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, 28 tuổi, Diệp Trường Phát trở lại An Thái mở lò dạy quyền Tàu. Đến giờ, dân làng An Thái vẫn truyền tai nhau chuyện thi tài giữa Sáu Tàu và đệ nhất roi Hồ Ngạch. Bởi đó là cuộc thí võ kết bạn nên hai bên đã giao ước không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục đối phương.

Trước sự chứng kiến của nhiều môn đồ, hai ông giao kèo lấy một tuần nhang là một hiệp đấu. Sau hiệp đấu quyền, khán giả đếm được những vết mực trên áo hai người là như nhau, tuy thế, Hồ Ngạch vẫn chắp tay bái phục Tàu Sáu, thừa nhận mình kém hơn một bậc. Khán giả hết sức ngạc nhiên.

Khi ấy, Hồ Ngạch mới giải thích, các vết mực Tàu Sáu lưu trên y phục mình có phần nhạt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, đường quyền thế cước của Tàu Sáu đã ở mức thượng thừa. Bởi vậy nên ông mới có thể vận hành công lực như ý muốn nên đòn ra mới nhẹ nhàng, dấu mực mới nhạt. Nếu cũng những quyền thế ấy, thi triển hết 12 thành công lực thì sức mạnh sẽ rất kinh hoàng, có thể lấy mạng người trong chớp mắt.

Về côn, tuyệt kỹ của Hồ Ngạch, hai bên cũng quần thảo kinh hồn. Người xem chỉ thấy tiếng gậy va vào nhau chan chát còn bóng người thì lấp loá, mờ ảo. Sau tuần nhang, Tàu Sáu thấy trên người mình nhiều vết mực hơn. Trước đông đảo mọi người, ông đã chắp tay bái phục: “Đoản côn ở Thuận Truyền chỉ có Hồ Ngạch làm chủ!”.

Phiêu bạt tìm thầy

Về tinh thần thượng võ, ham học hỏi của người Việt, bây giờ, cụ Hàn Bái (Lê Bái) sáng tổ Hàn Bái đường, Thiếu lâm Hài Bái vẫn được giới võ lâm hết mực tôn thờ. Lê Bái sinh năm 1889, xuất thân từ một gia đình quyền quý.

Ngày ấy, người Pháp cho xây dựng tuyến đường sắt nối liền Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc) với Hải Phòng bởi thế giao lưu đi lại đã thêm bề thuận tiện. Biết Trung Hoa là nơi có nhiều kỳ tài võ học nên Lê Bái đã xin làm Sở Hoả xa tại tỉnh Vân Nam để tìm cơ hội trau dồi võ nghệ. Sau một thời gian nghe ngóng, thấy ở Phúc Kiến có bậc cao nhân từng làm giáo đầu trong triều, Lê Bái đã xin nghỉ việc để tìm lên thọ giáo.

Vị sư phụ ấy họ Lý, tên Quân ở Trung Hoa đã danh vang tứ hải. Thấy Lê Bái khôi ngô, tinh hoa phát tiết, Lý sư phụ mừng lắm, vui vẻ thu nạp làm đệ tử. Thế nhưng, trước khi bái sư, Lý sư phụ muốn thử tài năng của cậu học trò mình. Trước thịnh tình của vị sư phụ Lê Bái cũng chẳng khách khí, xuất luôn chiêu Hắc hổ xuyên tâm, đánh thẳng vào ngực đối phương với dự tính trong đầu, nếu bị hoá giải sẽ tiếp tục dùng thức Thanh xà nhập động sở trường của mình mà tấn công đối thủ.

Thế nhưng, dự tính ấy đã bị vị quyền sư bắt bài. Ông không gạt tay đối thủ mà nhẹ nhàng tóm thẳng cổ tay, giật xuôi theo đà lao của Lê Bái, đồng thời, quét luôn chân trụ của đối phương, hất văng xa ra. Tuy đau đớn nhưng cú đánh ấy làm Lê Bái mừng rơn. Bái biết, đấy đích thị là người thầy mà bấy lâu nay mình tìm kiếm.

Ba năm luyện võ tại nhà Lý sư phụ, Lê Bái đã trưởng thành, tên tuổi cũng đã lừng danh khu Phúc Kiến. Khi ấy, Lý sư phụ đưa cho người đệ tử yêu của mình lá thư tay, nói là quay lại Vân Nam tìm thầy Triệu Quang Chảo, một cao nhân của Thiếu lâm. Theo Lý sư phụ thì tuy là bạn nhưng luận về võ công, so với Quang Chảo, ông chỉ là hậu bối.

Quay lại Côn Minh, Lê Bái tiếp tục những tháng ngày khổ luyện và đến năm 1918 thì trở về quê nhà. Sau một thời gian kỳ bạt giang hồ, dạy võ ở khắ nơi, thọ bệnh, ông mất năm 1928, khi vừa tròn 40 tuổi. Bây giờ, đệ tử của ông, tiêu biểu là đại sư Vũ Bá Oai vẫn tiếp tục sự nghiệp hiển hách, hoằng dương tinh thần thượng võ của vị sư phụ kỳ tài của mình.

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2011

'Đòn ngoại giao' của cha ông khiến ngoại bang nể sợ

Bài đăng trên Baodatviet.vn
(ĐVO) Trước những mưu đồ thôn tính, xâm lược, cha ông đã vận dụng sách lược ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên định, cương quyết, không chỉ nhằm bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền mà còn khiến ngoại bang phải chùn bước, nể sợ. Đất Việt trích đăng một số một số sách lược ngoại giao của các bậc tiền nhân, để hậu thế suy ngẫm.


1. Năm Canh Dần (990), vua Tống Thái Tông cử Tống Cảo làm Chánh sứ và Vương Thế Tắc làm Phó sứ mang chiếu thư sang gia phong cho Lê Hoàn (941-1005) chức “Đặc tiến”. Đó là một chức quan to dưới hàng tam công, chỉ vua chư hầu nào có công đức, được triều đình Trung Quốc kính trọng mới được phong chức này. Trước đó, sau khi đánh tan cuộc xâm lược của nhà Tống vào năm 981, Lê Hoàn mới được vua Tống phong Tiết Trấn (985), rồi Kiểm hiệu Thái bảo sử trì tiết đô đốc Giao châu chư quân sự, An Nam đô hộ, Tĩnh hải quân tiết độ sứ (986), Kiểm hiệu Thái ủy (988).


Năm Canh Dần (990), Hoàng đế Lê Hoàn đã có cách đón tiếp sứ Thiên triều thật độc đáo. Vua Lê đã sai tướng Đinh Thừa Chính mang 9 chiến thuyền và 300 quân sang tận Liêm Châu thuộc Quảng Đông, Trung Quốc để đón sứ giả theo yêu cầu của nhà Tống, nhưng đây cũng là cách để giám sát các hoạt động của sứ thần. Mặt khác, ông cũng muốn cho sứ giả thấy đến kinh đô Đại Cồ Việt xa xôi, vất vả thế nào. Đoàn thuyền đi hơn nửa tháng mới tới cửa sông Bạch Đằng và đến tận tháng 10 năm đó, sứ bộ mới đến được trạm đón tiếp gần kinh thành Hoa Lư.
Khi đến kinh đô, để cho sứ thần thấy được sức mạnh của Đại cồ Việt về quân sự cũng như sự sung túc về kinh tế, Lê Hoàn đã tổ chức diễu binh, diễn tập quân sự trên sông nước và trên bộ. Trên sông, thủy quân dàn trận, chiến thuyền san sát, quân sỹ reo hò chèo thuyền, khua chiêng, trống vang trời. Thấp thoáng trong sườn núi, bộ binh quân phục rực rỡ đi lại tấp nập, cờ xí, khí giới rợp trời, bụi bay mù mịt. Còn trên cánh đồng mêng mông, hàng vạn con trâu bò rong ruổi.

Lê Hoàn cưỡi ngựa cùng đoàn tùy tùng ra ngoài thành đón sứ thần. Gặp sứ Tống, Lê Hoàn vẫn ngồi trên mình ngựa chỉ khẽ nghiêng mình thi lễ, sau đó thong dong cùng vào thành.

Trong cung vua, ở cửa Minh Đức, vua giơ tay đón lấy bài chế của vua Tống từ tay sứ giả để lên trên điện, song không lạy. Ông giải thích vừa đi đánh giặc Mán, ngã ngựa, chân đau, không lạy được. Chánh sứ Tống Cảo cũng đành chịu. Theo nghi lễ của Trung Quốc lúc đó, khi nhận chiếu thư của Thiên triều, vua các nước chư hầu đều phải lạy. Đây là lần đầu tiên, vua nước ta nhận chiếu thư không lạy.

Lê Hoàn đã cho mở đại yến tiệc ngoài bãi biển để chào mừng sứ thần. Chủ và khách vừa ăn tiệc vừa múa hát và lấy trò đâm cá làm vui. Có lúc Hoàng đế Lê Hoàn và các quan dự yến cởi cả mũ áo, cân đai cùng tham gia trò đâm cá. Mỗi khi có người đâm được cá thì hò reo nhảy múa. Sứ Tống tỏ ra lúng túng. Bỏ cân đai, hia, mũ áo tham gia đâm cá thì còn gì thể thống của sứ Thiên triều, mà ngồi yên thì không khỏi sượng sùng.

Vua Lê còn mời sứ giả xem những người lính Đại Cồ Việt tay không đánh nhau với hổ trong sân nhà vua. Hổ dữ gầm thét lồng lộn để vồ lấy người, nhưng đã bị những người lính “tặng” quả đấm như trời giáng vào hai thái dương và bị đạp vào chỗ hiểm nên chỉ còn điên cuồng giãy giụa. Sau trận đấu hổ là trò trăn dữ biểu diễn. Trăn có thể nuốt người ăn thịt hoặc vặn mình cho đến nát, song đã bị người lính bé nhỏ điều khiển, cho quấn lên cổ mà không khiếp sợ. Lê Hoàn còn hỏi sứ giả có dám ăn thịt trăn thì làm thịt thết đãi. Tống Cảo sợ khiếp vía và từ chối.

Cách đón tiếp sứ Thiên triều của Hoàng đế Lê Hoàn thật độc đáo. Ông đã cho sứ giả thấy sức mạnh quân sự của Đại Cồ Việt - từng đánh tan cuộc xâm lăng của quân Tống và đánh thắng quân Chiêm Thành, vua tôi có bản lĩnh kiên cường, người Việt dũng mãnh, kiên cường đánh nhau cả thú dữ, uy hiếp tinh thần sứ giả và còn đường đến kinh đô Đại Cồ Việt xa xôi, hiểm trở và vô cùng vất vả. Lê Hoàn đã nói thẳng với Tống Cảo: Đường sá xa xôi, núi non hiểm trở này nếu có quốc thư cứ xin giao nhận ở biên giới, khỏi phiền sứ giả đến Hoa Lư. Vua Tống đã đồng ý.

2. Sau khi chiếm được thành nhà Lê (Thăng Long), Càn Long ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị ráo riết thực hiện kế hoạch truy bắt Nguyễn Huệ, kể cả việc đánh vào vùng Quảng Nam (1), sào huyệt của quân Tây Sơn, sau đó, tìm cách chiêu dụ Nguyễn Huệ ra hàng. Bị Nguyễn Huệ đánh tan nát tại Thăng Long vào đầu xuân Kỉ Dậu (1789), Tôn Sĩ Nghị đem tàn quân tháo chạy về nước. 20 ngày sau, Càn Long hay tin bại trận liền tức tốc cách chức tổng đốc của Tôn Sĩ Nghị, điều Phúc Khang An, người vừa chiến thắng tại Đài Loan trở về kiêm chức tổng đốc Lưỡng Quảng, đồng thời liên tiếp ban ra nhiều chỉ dụ để đối phó với tình hình cấp bách. Thang Hùng Nghiệp tiếp sứ và gửi thư cho Quang Trung, đại ý: Lê Duy Kì bỏ nước mà trốn, Thiên triều quyết không đem nước An Nam cho y nữa. Hãy thừa lúc trước khi chưa vâng dụ chỉ, ủy thác ngươi gõ cửa quan kêu xin, ngõ hầu có thể ngưỡng cầu ân điển.


Và vì quá nể phục Hoàng đế Quang Trung, Càn Long đã thực hiện chính sách đối xử tàn tệ với bọn vua quan lưu vong Lê Chiêu Thống, kể cả sau ngày vua mất. Về phía vua Quang Trung, sau khi đại phá quân Thanh, đã có chủ trương cầu hòa, cử người lên vùng biên giới phía bắc để thương thảo. Vua liền sai Hô Hổ Hầu dâng biểu cho Càn Long với lời lẽ nhún nhường: "Tha thứ cho thần cái tội đón đánh Tôn Sĩ Nghị, lượng cho lòng thành của trẫm đã lắm lần gõ cửa quan trấn tấu, cho thần làm An Nam Quốc vương...". Nhưng có lúc Nguyễn Huệ cũng rất khẳng khái: "Này đường đường là triều đình Thiên tử lại đi so hơn thua với nước nhỏ thì ắt là muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo thì thật cái lòng của Thánh thượng không nhẫn."
Và Quang Trung thách thêm: "Trong muôn một nếu can qua nối tiếp không dứt, tình thế đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần cũng không dám biết nữa.".

Đọc thư, Thang Hùng Nghiệp thấy kinh, bảo với sứ giả Hô Hổ Hầu rằng: Nay không phải là lúc hai nước đánh nhau, sao lại hành sự toàn một giọng giận dữ? Nói thế là chẳng muốn cầu phong tước hay muốn gây mối can qua chăng? Rồi trả lại văn biểu không dám đệ đạt lên Càn Long.

Càn Long cũng biết việc trả lại biểu và xem đó là điều cần thiết để răn đe. Trong Chỉ dụ 03-02-CL54 (27-02-1789) có ghi: "Nguyễn Huệ chỉ mượn việc dâng biểu để thử lòng chúng ta mà thôi, nay chỉ ném trả biểu lại, sợ không đủ để y chấn động sợ hãi mà kiên định sự hối tội đầu thuận". Càn Long còn căn dặn thêm: "Hãy dùng lời hịch dụ nghiêm khắc, khiến Nguyễn Huệ thấy Thiên triều không chuẩn sự qui thuận, sợ hãi uy danh, sẽ sai người cho quan binh trở về, cho trãi ba, bốn lần khẩn cầu, lúc này Phúc Khang An sẽ tuân theo chỉ dụ trước, tùy cơ tâu lên xin chiếu chỉ để liệu biện"..

Tuy nhiên, nghĩ rằng lời lẽ cứng rắn quá, sợ Quang Trung bỏ cuộc, không chịu qui hàng, nên trong chỉ dụ sau, Càn Long ma mãnh dặn lại "Phúc Khang An truyền hịch dụ Nguyễn Huệ, trong sự nghiêm khắc nên mở một con đường... Truyền dụ minh bạch như vậy, bọn Nguyễn Huệ không thấy tuyệt vọng, tất sẽ khẩn thiết khất hàng."

Phúc Khang An đã lệnh cho Thang Hùng Nghiệp làm môi giới, bàn bạc, cò kè bớt một thêm hai với sứ thần của Tây Sơn là Nguyễn Hữu Điều, Vũ Huy Tấn các vấn đề liên quan và góp ý xây dựng một biểu văn mới trình lên Càn Long lời lẽ nhu hòa: "Thần đã nhiều lần sai người gõ cửa quan xin tội, cùng đưa về những quan binh chưa chạy ra khỏi nước An Nam. Còn những người sát hại quan Đề, Trấn thì trót đã mắt thấy xử theo pháp luật ...Vốn phải đích thân đến kinh khuyết trần tình xin tội, nhưng trong nước gặp việc binh đao, nhân tình chưa yên, kính cẩn sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển theo tờ biểu vào chầu"(4). Đó là cách từ chối khéo léo, là cách hoãn binh để thăm dò tình hình trước đòi hỏi của Nhà Thanh là Quang Trung phải đích thân đến kinh khuyết.

Càn Long vui mừng nhận biểu và gửi lại Quang Trung một đạo dụ ngày 03-5-CL54 (27-5-1789), lời lẽ không còn mang tính đe dọa như trước. Ngay việc Quang Trung đánh tan tác quân Thanh vừa rồi, Càn Long cũng cho rằng không phải do Quang Trung cố ý gây ra mà chỉ là ngộ sát và hạ giọng nhân nghĩa: "Trẫm thương người thành tâm hối lỗi, nên việc dĩ vãng không muốn truy cứu".

Nhưng Càn Long vẫn còn eo sách chỉ chấp thuận Quang Trung trực tiếp sang cầu phong chứ không chấp thuận cử người đi thay. Tuy vậy, Càn Long cũng gợi ý mở đường: "Nếu như ngươi có lòng thành, hãy đợi đến tháng 8 năm thứ 55 nhân dịp lễ khánh thọ 80 của Trẫm, thời điểm này tính đến nay còn hơn một năm, trong nước ngươi chắc đã thu xếp yên ổn, lúc bấy giờ hãy bẩm với viên Tổng đốc xin đến kinh khuyết".

Cuối cùng, Càn Long cũng giảng hòa. Đôi bên thỏa thuận, năm 1789, Nguyễn Quang Hiển sang chiêm cận và được đón tiếp nồng hậu. Ngày 24-7-CL54 (13-9-1789), Chánh sứ Nguyễn Quang Hiển, Phó sứ Nguyễn Hữu Điều, Vũ Huy Tấn và đoàn tùy tùng được thiên tử tiếp đãi tại Quyền A Thắng cảnh. Càn Long rất vui mừng khi được sứ thần ta thông báo vua Quang Trung chờ lúc việc nước tạm yên cũng sẽ đích thân đến kinh khuyết chiêm cận.

Để Quang Trung yên tâm đến Bắc Kinh, Càn Long dặn Phúc Khang An "hãy cho Nguyễn Huệ biết một cách khắc thiết như vậy sẽ không còn nghi ngờ gì nữa... Và hãy lệnh cho Nguyễn Quang Hiển đem tình tiết này biên thư cho Nguyễn Huệ hay để lòng y không còn nghi ngờ" (CD 23-5-CL54). Khi Nguyễn Quang Hiển về nước, Càn Long đặc cách ban cho Nguyễn Huệ gấm vóc các loại để làm nổi bật sự ưu đãi và tỏ rõ "nỗi vui mừng được gặp nhau sẽ không xa".

Yêu sách chính của Càn Long, là làm sao vua Quang Trung đến kinh khuyết chiêm cận, xem như đã biết hối lỗi, một hình thức qui phục để rửa nhục thất trận của thiên triều, để xóa đi sự bẽ mặt của mình trước thần dân. Đó là một đòi hỏi cũng chỉ vì oai danh mà thôi. Vì vậy, Càn Long tích cực chỉ đạo cho Phúc Khang An liên hệ với An Nam để việc này trở thành hiện thực.

Mục đích đó đã đạt được. Ngày 29- 3- CL55 (13-5-1790) phái đoàn Quang Trung khởi hành đến Bắc kinh, như trông mong của Càn Long, mở đầu cho một thời kì bang giao mới giữa hai triều đại nhà Thanh-Tây Sơn giai đoạn hậu chiến. Và vì quá nể phục Hoàng đế Quang Trung, Càn Long đã thực hiện chính sách đối xử tàn tệ với bọn vua quan lưu vong Lê Chiêu Thống, kể cả sau ngày vua mất.

3. Năm Tân Mão (1831) đời Minh Mạng nhà Nguyễn, ở Hưng Hóa (1) có một thổ tù là Đèo Văn An, vì phạm lỗi nên đã bỏ trốn sang Vân Nam nước Thanh. Bọn quan quân ở đây nhân muốn xâm lấn lãnh thổ nước ta, liền viện cớ tra xét sự việc, cứu giúp người bị oan rồi hội binh áp sát biên giới.


Dưới thời vua Minh Mạng, một viên lãnh binh đã có một việc làm với nhà Thanh thật đáng khâm phục. Nghe tin cấp báo, viên lãnh binh Thắng trông coi việc quân ở Hưng Hóa được lệnh dẫn binh đi đối phó. Để khiêu khích, quân Thanh gửi sang một bức thư dọa nạt, lời văn ngạo mạn, hống hách. Trước sự việc đó, lãnh binh Thắng một mặt cho quân lính tích cực chuẩn bị, sẵn sàng ứng chiến, mặt khác viết thư trả lời nêu rõ tội trạng của Đèo Văn Anh. Trong bức thư trả lời của lãnh binh Thắng, đề ngày 26 tháng 7 năm Tân Mão (1831) có đoạn:
“… Các người đã vì nó mà đến để tra cứu làm việc, nay sự lý đã rõ ràng như thế, tự nên chỉ rõ cho nó để điều đình cho yên việc. Thế là không những chỉ bảo toàn được cho một mình Đèo Văn An mà không đến nỗi phải gây động can qua, nhân dân không đến nỗi gặp tai họa, mới là tốt lại càng tốt đấy!

Chúng tôi vâng mệnh quan trên đến đây để giữ gìn đất đai bờ cõi, vốn không chịu đối trận giao binh với các người một cách dễ dàng, nhưng xưa nay muốn giữ được trọn vẹn hòa hảo thì trong lòng hai bên đều cần phải bỏ qua đi, thì mới trọn vẹn được.

Nay nhận được tờ trát đưa đến, nói các lời rằng: “Nếu đến nỗi gây động can qua thì chúng bay không khỏi người mệt, lương thiếu”, thật là đa tạ các người đã uổng phí lòng chiếu cố rồi đấy. Núi là đường của chúng tôi, ruộng là lương của chúng tôi, có gì là mệt với thiếu? Chỉ sợ các người xa thì thiếu thốn thôi.

Các người lại nói các lời rằng: “Đến nơi gần mà điều binh sẽ được ngay tám chín nghìn tên. Lấy người nhàn rỗi mà đối địch với kẻ mệt nhọc”. Các người vượt bờ cõi đến đây còn phải mất công triệu tập, chứ đấy là trong nhà chúng tôi, cỏ cây đều là quân lính, một hai vạn cũng có chứ sao lại chỉ có tám chín nghìn? Thì ai là nhàn rỗi, ai là mệt nhọc?

Chúng tôi kính thuận là vì nên làm theo nghĩa lý chứ không phải là đất đai và quân lính yếu. Trong các người phần nhiều là người đọc sách biết thời vụ, há không nghe thấy công việc từ thời Nguyên, thời Minh tới nay mà so sánh với công việc của nhà Trần, nhà Lê đấy sao? Các người đã hẹn với chúng tôi là mười ngày thì xong việc, thế mà bấy lâu không thấy rút quân, há không phải là theo lối cũ làm chước hoãn binh, hoặc lại tụ tập bọn khác đến mưu hại chúng tôi đấy sao?

Nếu ngày nay, bọn con em chúng tôi không ngại phiền phức thì cứ tiến lên một bước là đánh một bước, bắn một phát súng thì há không phải là các người cố ý kích động chúng tôi đấy sao? Nếu sau này xảy ra một việc không tốt lớn hoặc nhỏ, thì rõ ràng là không phải tự chúng tôi gây ra rồi. Chúng tôi lại sợ quan trên của các người sẽ đem cái tội lớn là “gây càn ra thù hằn nơi biên giới” mà đun đẩy lên mình các người thì các người chịu đựng thế nào?…

Trăm việc lấy hòa làm quý, thử đem lời nói của tôi mà ngẫm nghĩ kỹ xem! Nếu thu xếp xong được sớm, rút về không lưu lại một giờ nào thì tôi cũng không cần ở lâu để cai quản việc không cần thiết. Nếu để chậm đến cuối mùa thu thì lam chướng ngày càng nặng, mưa lụt ngày càng nhiều, lính của tôi đã quen thuộc khí hậu còn cảm thấy khó nhọc, huống chi lính các người quen ở đất Bắc, nay ở lâu trong vùng lam chướng sợ không chịu nổi.

Vả chăng các người là bực đại trí tuệ, đại kiến thức, mong hãy soi xét lời nói phải, sắp xếp hoàn thành việc rất tốt này cho cả hai bên, há không phải tay không mà tạo thành được tòa tháp bảy tầng, không những con cháu được hưởng công đức ấy vô cùng, mà tự mình trước đã hưởng điều rất vui sướng đấy.

Hơn nữa mảnh đất sỏi đá này có hay không thì có quan hệ gì? Việc đi lần này chắc chỉ vì lầm nghe bọn tiểu nhân nói những điều khách khí, nay thì điều khách khí đã thoải mái rồi, còn đòi gì nữa? Chúng tôi đi chuyến này vốn là bất đắc dĩ, mong các người tỏ lòng tốt. Nếu buổi sớm các người rút quân thì buổi chiều chúng tôi cũng cáo từ đấy, chúng tôi há có thích gì cái việc không vui sướng này đâu! Chúng tôi đã thành tâm khuyên nhủ, các người nên nhớ cho kỹ. Vậy đưa tờ trát này để trả lời các người biết”.

Theo quan chế thời Nguyễn, lãnh binh chỉ là võ tướng chỉ huy quân đội ở địa phương, nhưng việc làm thật đáng khâm phục. Mặc dù lời lẽ và cách hành văn trong bức thư của ông rất mềm mỏng nhưng lại khôn khéo, cương quyết, dù ở thế yếu trước một kẻ mạnh hơn mà vẫn thể hiện khí phách hiên ngang, khẳng định quyền tự quyết thiêng liêng, ý chí tự cường, sẵn sàng đánh trả bất cứ thế lực nào xâm phạm đến lãnh thổ và nền độc lập của đất nước.

Mưu trí cha ông đánh bại âm mưu xâm lược của địch (kỳ 2)

Bài đăng trên Baodatviet.vn

(ĐVO) Sử dụng chiến lược từng bước lui binh, bảo toàn lực lượng, hay cách đánh bất ngờ, thần tốc..., trong binh pháp của "thống soái", tùy theo bối cảnh chiến sự, để giành thắng lợi trước kẻ thù... đều là chiến lược "độc" bù đắp sự chênh lệch về số lượng giữa ta và địch.


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Lịch sử nước ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”.


Trần Hưng Đạo: Chế ngự sức mạnh của địch và phản công khi chúng suy yếu

Trước chiến tranh chớp nhoáng đánh Đại Việt của đại quân Nguyên - Mông, quân ta dưới sự chỉ huy thao lược tài tình của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cùng tướng lĩnh kiệt xuất của nhà Trần, sử dụng chiến lược từng bước lui binh, bảo toàn lực lượng, bỏ ngỏ kinh thành cho giặc dữ, từ đó củng cố và tăng cường thực lực, phản công, đánh bại hoàn toàn 3 lần xâm lược của kẻ thù.


Trận Đông Bộ Đầu (1258): đánh tan đạo quân xâm lược Mông Cổ tại bến Đông Bộ Đầu (gần cầu Long Biên, Hà Nội ngày nay), kết thúc khánh chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất. Ảnh minh họa
Tài ba của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn gồm cả văn lẫn võ. Văn ở tầm "đại học vấn, đại uyên bác" với Hịch tướng sĩ: "Ta ngày thường quên ăn, đêm thường quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìạ.." - làm sáng bừng lên nghĩa khí Đại Việt, cuốn thiêu đi cạn hẹp lòng người, truyền khí phách tới ba quân tướng sĩ...

Võ ở tầm nhà chiến lược, quân sự phương Đông, hơn thế, nhà lập thuyết quân sự và bày binh Đại Việt. Lý thuyết và nghệ thuật dùng binh thuở ấy được Trần Hưng Đạo hội nhập và sáng tạo bộ chủ gia binh pháp, gọi là Binh thư yếu lược, từ đó soạn ra Vạn kiếp tông bí truyền thư, làm nền tảng cấu trúc quân đội thời Trần và luyện quân, tập tướng.

Lần thứ nhất với chiến thắng Đông Bộ Đầu vào đầu thế kỷ 13. Nắm bắt được mưu đồ xâm lược của 30 vạn quân Nguyên ào ạt tràn sang xâm lược nước ta, trước thế mạnh của giặc Nguyên, Trần Hưng Đạo không dùng đại quân chủ lực mà dùng quân địa phương, dân binh đánh chặn tiêu hao sinh lực, còn chủ lực “ẩn mình” cơ động về Vĩnh Phú, rồi sang Hưng Yên, để chờ thời cơ ra đòn phản công quân địch; đồng thời, thực hiện kế sách “thanh dã” – vườn không nhà trống ở thành Thăng Long. Đến giữa tháng 1/1258, quân Nguyên đã tràn vào Thăng Long bỏ trống và biến thành chiến địa. Sau 10 ngày chiếm kinh thành với vườn trống, nhà không, không tìm ra một cân lương thực nào trong thành Thăng Long, lại bị quân địa phương, dân binh quấy rối… Quân giặc lương thảo cạn dần, sức lực, sĩ khí quân Nguyên sa sút,… lâm vào thế “tiến thoái lưỡng nan”. Trần Hưng Đạo quyết định đêm 24/1/1258 dùng đại quân chủ lực mở cuộc tấn công từ Đông Bộ Đầu (phía Đông hữu ngạn sông Hồng) làm quân Nguyên bị bất ngờ, bỏ chạy tán loạn, hơn 60% binh lực bị tiêu diệt tại trận, tàn quân còn lại tháo chạy về nước.

Lần thứ hai với chiến thắng Chương Dương - Giang Khẩu. Cuối năm 1284, Thoát Hoan chỉ huy 60 vạn quân từ hướng Bắc tràn sang nước ta. Trần Hưng Đạo sau khi đã soạn thảo hai bộ binh thư yếu lược để luyện quân, động viên ba quân bằng “Hịch tướng sĩ” và vận dụng binh pháp “Kiên thủ chờ suy” bảo tồn lực lượng chủ lực chuyển vào ẩn quân ở Thiên Trường, Tam Điệp, Thanh Hóa, đồng thời tăng cường địa phương quân ra sức chặn đánh ngăn chặn phía trước, triệt hậu cần phía sau để cầm chân giặc.

Tháng 5/1285, Trần Hưng Đạo cho quân tổng phản công từ hai hướng Chương Dương và Giang Khẩu và trực tiếp chỉ huy đánh thắng trận đầu ở A Lỗ; liên tiếp thắng lớn trong các trận: Hàm Tử, Chương Dương và Vạn Kiếp. Giặc Nguyên không kịp trở tay. Quân ta đại thắng. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để quân lính khiêng tháo chạy về nước.


Chỉ sau 5 tháng xâm lược nước ta lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng, quân Nguyên lại buộc phải rút chạy và vĩnh viễn từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt. Ảnh minh họa Ba năm sau, vào tháng 1/1288, quân Nguyên Mông tiếp tục tràn vào xâm lược nước ta. Trong lần tấn công lần thứ 3 này, Trần Hưng Đạo vẫn áp dụng kế sách bảo toàn quân chủ lực, nghi binh thu hút địch, dùng quân địa phương nhiều hơn đánh địch khắp nơi. Ngày 22/2/1288, quân Thoát Hoan tiến vào Thăng Long lại không một bóng người, bị dân binh ta bao vây và liên tiếp bị đánh khi đi cướp lương thực; đồng thời cắt đứt nguồn tiếp tế, khiến địch lại lâm vào thế khốn khó, rối loạn. Do vậy, chỉ sau 5 tháng xâm lược nước ta lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng, quân Nguyên lại buộc phải rút chạy và vĩnh viễn từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt.

Có thể nói, những trang sử chống ngoại xâm vàng son nhất của Việt Nam đều do công của Trần Hưng Đạo lập ra. Trong khi đội quân bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư Hãn làm mưa làm gió gần như khắp thế giới thì Việt Nam là một trong ba nước hiếm hoi cùng với Ấn Độ và Indonesia ngăn chặn được cơn hồng thủy Mông Cổ.

Quang Trung: Đánh thần tốc

Điểm nổi bật và cũng là ưu thế tiến hành quân sự của Quang Trung - Nguyễn Huệ là nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo và nắm chắc thời cơ. Trong suốt chặng đường chiến đấu, Nguyễn Huệ không chỉ chứng tỏ là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc, mà còn là một nhà cầm quân tài ba. Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện được.

Với trận Rạch Gầm-Xoài Mút (1785) - trận quyết chiến chiến lược của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, diệt quân Xiêm (Thái Lan) trên sông Tiền Giang, đoạn từ Rạch Gầm đến Xoài Mút - ngoài lợi dụng thủy triều, ông còn áp dụng nghệ thuật nghi binh khá linh hoạt. Các tướng Xiêm biết quân Tây Sơn ít hơn, thế nào Nguyễn Huệ cũng dùng chiến thuật nghi binh, nhưng khi trận đánh xảy ra, chúng lại hoàn toàn bất ngờ.


Với trận Rạch Gầm-Xoài Mút (1785), ngoài lợi dụng thủy triều, Nguyễn Huệ còn áp dụng nghệ thuật nghi binh khá linh hoạt. Ảnh minh họa Quân Tây Sơn không chỉ mai phục sẵn ở hai bên bờ sông, mà trong đêm trăng mờ mờ, quân của Võ Văn Dũng vừa đánh vừa lui. Một bộ phận quân Tây Sơn hai bên bờ cùng hợp lực với Dũng chặn giặc. Quân Xiêm nhận định: toàn bộ quân Tây Sơn đã lộ diện, vì vậy, không còn gì chần chờ nữa, tướng Xiêm đốc thúc ba quân đuổi theo thủy quân Võ Văn Dũng. Thuyền giặc cứ theo ánh sáng đèn của thủy quân Tây Sơn mà đuổi, chúng không biết rằng trên đường rút lui để dụ địch, thủy quân của Võ Văn Dũng đã dần dần tắt đèn tấp sang hai bên bờ chui vào các ngách sông. Quân Xiêm đuổi tới nơi thì thấy chỉ có mấy chiếc, biết là đã trúng kế Tây Sơn. Khi quân Xiêm lọt vào trận địa bày sẵn, Nguyễn Huệ đốc thúc thủy quân từ các nhánh sông đổ ra đánh. Đồng thời, súng đại bác trên cù lao Thới và hai bên bờ sông nã liên hồi vào thuyền giặc. Tướng Xiêm Chiêu Sương hoảng hốt cho dừng thuyền lại, nhưng bị thủy quân Tây Sơn từ các nhánh sông nhỏ đổ ra vây chặt, gồm: phía trước, phía sau, hai bên và ngay cả trên đầu, dẫn đến bị rối loạn hàng ngũ, quân sĩ lớp nhảy xuống nước bị chết chìm, lớp bị giáo đâm, gươm chém... thất bại nặng nề. Còn đạo quân bộ cũng bị quân Tây Sơn phục đánh tan, tướng Xiêm là Lục Côn bị Bùi Thị Xuân chém rơi đầu. Trong trận đánh này, với lực lượng khoảng ba vạn quân thủy bộ, Nguyễn Huệ đã tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm và 300 thuyền chiến.

Trong cuộc tiến công từ Phú Xuân ra Thăng Long tiêu diệt 29 vạn quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ - khi đó đã là vua Quang Trung - chọn cách tấn công vào Thăng Long từ phía Nam. Đó là khu vực quân Thanh bố phòng cực kỳ kỹ lưỡng. Nhưng đó cũng là hướng quân Thanh chủ quan nhất, vì chúng đinh ninh rằng ít có khả năng bị tấn công, thế nên Nguyễn Huệ đã quyết định ra đòn phủ đầu. Và đợt phản kích quân Thanh theo hướng này diễn ra rất chóng vánh: chỉ trong vòng 6 ngày, kể từ khi xuất binh (Đêm 30 tết) đến khi tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh trong trận Đống Đa (ngày mồng 5 tết).

Ở đây phải nói, chính yếu tố bí mật, địch quân không nắm được lực lượng của ta lại thêm thói khinh thường, đến khi ta bất ngờ tấn công thì không kịp chống đỡ, đã làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử của vua Quang Trung.

Như vậy, cách đánh bất ngờ, thần tốc là tâm điểm trong binh pháp của Quang Trung - Nguyễn Huệ. Đó là cách để bù đắp sự chênh lệch trước những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần...