Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

KẾT QUẢ BẦU CỬ CÁC CHỨC DANH TẠI KỲ HỌP THỨ I, HĐND TỈNH DAK LAK KHÓA VIII, NHIỆM KỲ 2011-2016

I/ Thường trực HĐND
1 Niê Thuật, Chủ tịch HĐND:82/83/85=96,47%
2 Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch HĐND:76/83/85=89,41%
3 Nguyễn Thanh Hiệp, UVTT HĐND:77/83/85=90,58%
II/ Các Ban của HĐND
1 Ban Kinh tế ngân sách:
1.1 Nguyễn Ngọc Những, Trưởng ban: 81/82/85=95,29%
1.2 H Lim Niê, Phó Trưởng ban: 82/82/85=96,47%
2 Ban Văn hoá xã hội:
2.1 Võ Quang Tuyên, Trưởng ban: 82/82/85=96,47%
2.2 Võ Văn Cảnh, Phó Trưởng ban: 82/82/85=96,47%
3 Ban pháp chế:
3.1 Phạm Hát, Trưởng ban:82/82/82=96,47%
3.2 Nguyễn Thị Thu Nguyệt, Phó Trưởng ban: 80/82/85=94,12%
4 Ban Dân tộc:
4.1 Bùi Thị Kim Nga, Trưởng ban: 81/82/85=95,29%
4.2 H Mai Knul, Phó Trưởng ban: 82/82/85=96,47%!
III/ Thành viên UBND
1 Lữ Ngọc Cư, Chủ tịch UBND:59/83/85=69,48%
2 Y Dhăm Ênuôl, Phó Chủ tịch UBND:79/83/85=92,94%
3 Trần Hiếu, Phó Chủ tịch UBND:78/83/85=91,76%
4 Mai Hoan Niê Kdăm, Phó Chủ tịch UBND:77/83/85=90,58%
5 Đinh Văn Khiết, Phó Chủ tịch UBND: 75/83/85=88,23%
6 Y Phu Ê Ban, Ủy viên UBND: 83/83/85=97,64%
7 Trần Kỳ Rơi, Ủy viên UBND:83/83/85=97,64%
8 Nguyễn Văn Sự, Ủy viên UBND:82/83/85=96,47%
9 Nguyễn Thanh Nam, Ủy viên UBND: 82/83/85=96,47%
10 Võ Minh Sơn, Ủy viên UBND, 82/83/85=96,47%
11 Nguyễn Viết Tượng, Ủy viên UBND: 82/83/85=96,47%

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

Cao thủ võ Việt: Công phu đặc dị và khí phách Thăng Long Võ đạo (III)

Bài đăng trên 24h.com.vn

Năm 1989, báo giới đã đồng loạt đưa tin với một cái tít giật mình: “Hiện tượng võ thuật mới” hay “Một ngôi sao đã mới xuất hiện trên bầu trời võ thuật”… Nhân vật của các bài báo chứa đựng đầy sự kinh ngạc ấy là võ sư Nguyễn Văn Thắng, hiện đang là chưởng môn của môn phái lừng danh: Thăng Long võ đạo.



Ngày ấy, tại Đại hội võ thuật toàn quốc, với tiết mục Khẩu lợi công, ông đã làm cho cả giới võ lâm phải ngả mũ kính phục. Vóc dáng thư sinh, gày còm (nặng 52 kg) nhưng khổ luyện, với hàm răng như thép của mình, ông đã nâng bổng chiếc bàn bao gồm đỉnh đồng, nến, hạc, ảnh thờ… nặng tới gần 80 kg. Hơn 20 năm đã trôi qua, vị võ sư gây chấn động với công phu đặc dị năm xưa vẫn thế, vẫn vóc dáng thư sinh, vẫn kiểu đi lại, nói năng hoạt bát và vẫn phương châm sống: “Thần vượng không ham ngủ, khí vượng không ham ăn, tinh vượng không ham sắc”…

Đặc biệt hơn, ông vẫn gây bất ngờ bởi những công phu siêu đẳng của mình.

Người luôn thức dạy từ 3 giờ sáng
Nội công thâm hậu của võ sư Nguyễn Ngọc Nội (môn phái Vịnh Xuân) đã nức tiếng trong làng võ bấy lâu nay. Ông đã từng đăng đài, để mọi người thẳng tay đấm vào bụng mấy ngàn quả mà mặt chẳng hề biến sắc. Vậy nhưng, khi hỏi ông về những cao thủ trong làng võ, đặc biệt về nội công, ông đã không ngần ngại giới thiệu cái tên Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo. Theo võ sư Nguyễn Ngọc Nội thì sự nghiệp võ công của người đồng đạo Nguyễn Văn Thắng đang có những bước tiến bất ngờ.

Tuy có sự chỉ dẫn của võ sư Nội, nhưng vất vả lắm tôi mới gặp được ông bởi ông bận túi bụi tối ngày. Thời gian biểu cho một ngày làm việc của ông, ai thấy cũng đều phát hoảng. Một ngày của ông bắt đầu từ 3 giờ sáng. Khi ấy, tiết trời thanh mát, khí huyết lưu thông, ông lên sân thượng luyện khí công. Luyện khí đến 5 giờ, ông ra công viên Thống Nhất dạy khí công cho môn sinh cao tuổi. Bởi đang làm Chủ nhiệm khoa Giải phẫu bệnh lý (Bệnh viện Thanh Nhàn) nên 7 giờ, ông vội vã đến cơ quan. Làm việc đến 4 giờ chiều, ông về dạy thêm một lớp khí công ngay tại sân thượng nhà mình. Đến 7 giờ tối, lại tiếp tục dạy một lớp võ thuật cũng ngay tại sân thượng ấy.

Hoàng Phi Hồng của... Việt Nam

Võ sư Nguyễn Văn Thắng là chưởng môn đời thứ hai của Thăng Long võ đạo. Chưởng môn đời trước, cũng là sáng tổ của môn phái chính là cha đẻ của ông, võ sư nổi tiếng Nguyễn Văn Nhân. Nếu ai đã tận thấy những thế võ cận chiến tuyệt kỹ mà đặc công Việt Nam vẫn sử dụng để hạ gục đối phương trong chớp mắt thì có thể hình dung ra phần nào quyền cước siêu phàm của Thăng Long võ đạo bởi trước đây, lão võ sư Nguyễn Văn Nhân là thầy dạy của rất nhiều đơn vị đặc công.

Cho đến tận bây giờ, làng võ vẫn bảo, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân là người may mắn, bởi ông được thừa hưởng một “gia tài võ học” khổng lồ mà ông nội, ông ngoại của mình truyền lại. Ông nội cố võ sư là một võ tướng của triều đình nhà Nguyễn, nổi tiếng với Thiếu lâm nội gia, ông ngoại là cụ Cử Tốn, người chỉ nhắc tới tên, cao thủ khắp nơi đều phải chắp tay bái phục. Cụ Cử Tốn là cử nhân võ thuật cuối cùng của triều Nguyễn, khi giặc Pháp tấn công Hà Nội, cụ đã cùng Tổng đốc Hoàng Diệu tử thủ trong thành.

Sau này, khi Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Cử Tốn lui về ở ẩn tại khu làng ngay bên ngoài thành Hà Nội (phố Trần Quý Cáp bây giờ). Đau đáu nỗi nhục mất nước, cụ bí mật mở lò dạy võ, những mong, khi cơ hội đến lại cùng các môn sinh yêu nước của mình vùng lên chống giặc. Lò võ ấy một thời đã thu hút được rất nhiều những môn sinh ưu tú như Mùi Đen, Sáu Tộ (Sáng tổ môn phái Nam Hồng Sơn), Lý Đen, đặc biệt về sau này, người cháu ngoại của cụ, võ sư Nguyễn Văn Nhân, với những tinh hoa võ thuật học được từ cụ đã là rạng danh tiên tổ.

Cụ Cử Tốn nhiều giai thoại, hệt như Hoàng Phi Hồng bên Trung Quốc, tinh thần thượng võ luôn song hành với tinh thần ái quốc, thương dân. Bởi là nơi hội tụ những nhân vật kỳ tài, quân Pháp coi lò võ của cụ chẳng khác nào cái gai trong mắt.

Đả hổ kiểu Võ Tòng

Có lần chúng bày gian kế hãm hại cụ đến mù hai mắt. Không chịu khuất phục, cụ vẫn bí mật truyền dạy võ công cho những đệ tử yêu nước của mình. Bất lực, giặc Pháp viện đến một âm mưu quỷ quyệt, ấy là dùng giới võ lâm để triệt hạ lão võ sư cứng đầu ấy.

Chúng dựng võ đài, loan báo khắp Đông Dương rằng, võ sư nào đánh hạ được thày trò Cử Tốn thì sẽ được trọng thưởng Bắc Đẩu bội tinh và được trọng đãi hậu hĩnh sau này. Âm mưu ấy là vô cùng thâm hiểm, sẽ gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn, đồng thời, bởi ham mê danh lợi, nhiều người đã “bỏ quên” tinh thần yêu nước, xoay mũi giáo vào chính… người nhà.

Hiểu rõ âm mưu ấy, cụ Cử Tốn hết đỗi phân vân. Thượng đài thì khác nào mắc mưu quân cướp nước, không thượng đài thì môn phái ô danh, quần hùng khinh rẻ. Sau cùng, cụ đã nghĩ ra được một kế sách vẹn toàn.

Ngày ấy, ở sở thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi vô cùng hung dữ. Con hổ to lớn, hễ thấy người là lồng lên, bổ nhào lên chuồng thép như muốn ăn sống nuốt tuơi. Cụ Cử Tốn muốn môn sinh của mình diễn lại tích “Võ Tòng đả hổ” ngay trước mắt quần hùng để tạo thanh thế. Người được cụ chọn sắm vai Võ Tòng là võ sư Mùi Đen, một đệ tử có thân hình vạm vỡ.

Đúng hôm đăng đài, quần hùng tụ tập mấy vòng xung quanh cùng đám sĩ quan Pháp và bè lũ sai nha, cụ Cử mới nói rõ lý do tại sao lại thay màn tỉ thí võ công bằng màn đả hổ. Nghe cụ nói, tất thảy đều cúi đầu im lặng, và nín thở chờ xem màn quần thảo mà mới đầu ai cũng cho là chơi dại ấy.

Sau một hồi trống rộn rã, hai chuồng cọp đã được mấy chục người khiêng ra, đặt ở hai đầu võ đài. Phía bên trái là chuồng con cọp đực cụt đuôi đang gầm lên những tiếng kinh hồn, bên phải là con cọp cái cũng đang nhe nanh, giương vuốt gầm gừ trông vô cùng dữ tợn. Mùi Đen thượng đài, trông vô cùng hùng dũng.

Cứ thế, trước sự kinh hãi của mọi người, ông thủng thẳng vào mở cửa chuồng con cọp đực. Hai bên quần thảo vô cùng ác chiến, sau một giờ, bằng một đòn chí mạng, ông đã bẻ gãy cổ con mãnh thú khát mồi ấy. Chẳng cần nghỉ ngơi lấy sức, túm gáy “kẻ thua cuộc”, ông vác sang chuồng con cọp cái. Lại một màn kịnh chiến kinh hoàng diễn ra.

Và, cũng chừng ngần ấy thời gian, con cọp cái đã bị ông bẻ gãy bốn chân, nằm phủ phục, rên những tiếng thảm thiết. Phía dưới, quần hùng không ngớt vỗ tay tán thưởng và nể cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử, chẳng ai còn dám thượng đài nữa. Thực dân Pháp thì được một phen muối mặt, rẽ đám đông đang hân hoan với những lời tán dương không ngớt chuồn thẳng.

Trốn nã bởi đánh võ đài

Thụ giáo những tinh hoa võ công từ hai bên nội, ngoại, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân đã nhanh chóng bộc lộ, và phát huy năng khiếu võ học thiên bẩm của mình. Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể, ngay trước Cách mạng tháng 8, tuổi mới đôi mươi, cha ông đã là một thầy võ nổi tiếng ở Hà Nội.

Thanh niên, bởi còn sốc nổi, cha ông cũng hay đi đánh đả lôi đài. Thời ấy, đa phần các võ sĩ thượng đài ra lời thách đấu đều do giặc Pháp giật dây, vậy nên các trận đấu đều vô cùng kinh hãi. Kẻ thua trận nhẹ thì tàn phế, nặng thì bỏ mạng ngay tại võ đài. Bởi thế, hầu hết các võ đài mà giặc Pháp dựng lên thời kỳ ấy bên cạnh người võ sĩ thách đấu là chiếc quan tài được làm từ mây trông rất đẹp.

Ai thua, tử trận thì nằm luôn vào chiếc quan tài ấy. Một lần thượng đài, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Nhân đã vô tình quá tay, đánh trọng thương một võ sĩ đã đăng đài cả tháng mà chưa ai đánh hạ.

Theo lời võ sư Thắng thì ngày ấy, sau cú ra tay hơi mạnh đó, cha ông bị chính quyền thực dân truy nã. Sợ hãi, ông đã bỏ trốn biệt tích. Sau ba tháng, nhớ nhà, ông về, nhưng chẳng dám vào nhà. Ông trèo lên cây bàng cổ thụ ngay gần nhà mà nhìn vào trong, nhìn ngó mọi người. Năm 1944, ông theo cách mạng.

Tuần lễ vàng do Cụ Hồ phát động, ông đã đem tài nghệ của mình ra để biểu diễn quyên tiền cứu giúp nhân dân. Đất nước thống nhất, với những tinh tuý võ công mà mình đã được học, tinh luyện những phương pháp luyện tập võ thuật phù hợp với thể trạng người Việt, ông đã sáng lập ra môn phái Thăng Long võ đạo.

Võ sư Văn Thắng kể, ông được cha mình truyền thụ võ công từ năm 12 tuổi. Bởi là sĩ quan quân đội nên cha ông dạy võ cho ông theo kiểu… kỷ luật thép. Bây giờ, ông vẫn nhớ như in cái buổi đầu học võ… khổ sai ấy.

Trong gian nhà bếp chật hẹp, năm đầu, cha ông chỉ dạy ông duy nhất một môn… đứng tấn. Tháng đầu tiên, cha ông bắt ông mỗi buổi phải đứng tấn khi que hương cháy hết 1/3 mới thôi. Tháng thứ hai tăng lên là 1 nửa, tháng thứ 3 là cả que nhang. Đứng im, không nhúc nhích. Hễ động đậy là ngay lập tức chiếc roi trong tay cha vút lên, đau điếng. Hết đứng tấn dưới đất lại đứng trên cọc nhọn, sau một năm thì chuyển sang Ngoại ngạch công.

Cha ông bắt ông treo ngược chân lên xà, rồi cứ thế, ngửa cổ xuống dưới nhấc những xô đá đổ lên xô to phía trên. Xô đá mỗi lúc một đầy, một nặng thêm theo thời gian mà cha ông đã định sẵn. Hai năm, khi thân hình đã dẻo dai, cứng cáp ông mới được cha mình truyền thụ quyền cước.

Đi tìm thiên hạ đệ nhất võ Việt (kỳ 2)

Bài đăng trên 24h.com.vn

Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, hôm nghe tin con trai mình mất, ông chết điếng và cả mấy tháng sau, cứ thấy mình như đi trên mây khói.


Cha con “ông Ốc” và nghiệp võ “một thời vang bóng”

Ông hệt như Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, một nhân vật võ công cái thế, tóc bạc như cước nhưng lúc nào cũng hồn nhiên như trẻ nhỏ trong tiểu thuyết nổi tiếng Thần điêu đại hiệp của Kim Dung. Từng nổi danh với vai Ốc trong vở tuồng kinh điển Nghêu- Sò- Ốc- Hến, lại thêm cái vẻ hóm hỉnh ngoài đời nên ít ai có thể ngờ rằng ông lão có vóc người nhỏ bé tuổi ngoại bát tuần ấy lại là chưởng môn của môn phái một thời lừng danh, môn phái Bình Định Gia.

Ông là võ sư Trần Hưng Quang, giang hồ thường gọi là Quang “Ốc”, hay còn gọi thân mật là “ông Ốc”, trong giới võ lâm bây giờ, ông được suy tôn vào hàng trưởng lão. Những năm 90 của thế kỷ trước, đặc biệt khi người con trai Trần Hưng Hiệp tài năng thiên bẩm của ông còn sống, võ phái Bình Định Gia là mái nhà chung của cả vạn môn sinh đam mê quyền cước…

Lão võ sư Trần Hưng Quang là người nghiện thuốc lá. Thuốc Thủ đô ngày ông đốt đến cả bao. Ông bảo, người luyện võ thì phải kiêng tất cả những chất kích thích, ông cũng thế nhưng thuốc lá thì không tài nào bỏ được. Bởi thế, ở võ đường Việt- An, (sân trường Việt Nam- Angiêri, đường Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội) dù đám môn tối nào cũng rộn rã những tiếng la hét, tiếng dậm chân huỳnh huỵch, tiếng binh khí va vào nhau loảng xoảng thì trên thềm, ông vẫn ngồi đăm chiêu với điếu thuốc trên tay.

Tuy ngồi bất động như thiền nhưng ánh mắt quắc thước của ông vẫn dõi theo từng động tác của đám học trò. Hễ ai tập sai, như điện giật, ông bật dậy, hấp tấp chạy tới, lúc la hét, khi ngọt ngào uốn nắn. Xong việc, ông lại thong thả bước lên thềm. Lại thả hồn theo làn khói trắng.

Ông quê gốc ở Bình Định. Theo đồng đạo võ lâm thì ông là người duy nhất đưa võ cổ truyền Bình Định bắc tiến thành công. Nói về võ phái của mình, ông bảo, cách đây trên 200 năm, cụ Trần Đại Chí, sáng tổ của môn phái, vốn là một võ tướng, võ công đệ nhất, thao lược tài danh, bởi mâu thuẫn với nhà Thanh mà chạy dạt sang đất Việt.

Theo gia phả của dòng họ thì thủa nhỏ, cụ Chí được gia đình gửi vào Thiếu Lâm học võ. Hơn chục năm trời theo thầy miệt mài với thập bát ban, thành thạo, cụ lai kinh những mong đem chút tài mọn phụng giúp quốc gia, vinh danh dòng họ. Thế nhưng, Mãn Thanh vào buổi suy tàn, bất mãn, mâu thuẫn trong việc triều chính, cụ đã đưa cả gia quyến xuôi về phương Nam.

Nơi đầu tiên cụ đặt chân tới là đất Thăng Long, nhưng ngày ấy, kinh kỳ hỗn loạn, chẳng thể náu thân an toàn, cụ dạt vào Bình Định. Tại đây, duyên kỳ ngộ, cụ đã kết bạn với võ tướng Võ Văn Dũng, một trong những tướng tài của vua Quang Trung, từng nhiều phen vào sinh ra tử trong sự nghiệp đại phá quân Thanh.

Tri kỷ, hai người suốt ngày trà dư tửu hậu, bàn luận chuyện võ học tinh hoa. Và, những ngày tháng ấy, hai người đã trao đổi cho nhau tất cả những bí kíp võ công mà cả đời mình tầm sư học được. Qua cụ Dũng, cụ Chí đã lĩnh hội được toàn bộ võ công chân truyền của Bình Định, đồng thời, nhờ cụ mà cụ Dũng đã thông tuệ võ học Trung Hoa.

Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu, chắt lọc, tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam, sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương, nhu, trường, đoản, hư, thực.

Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu, không nặng về biểu diễn khoa trương. Theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì võ phái mà sáng tổ Trần Đại Chí sáng lập suốt mấy trăm năm chỉ truyền thụ cho con cháu trong dòng họ, tuyệt nhiên không phát lộ ra ngoài. Qua mấy đời chưởng môn (Trần Đại Chí, Trần Đại Si, Trần Đại Xy, Trần Đại Y) đến đời ông (chưởng môn thứ 5) thì Bình Định Gia mới thực sự là môn phái được đông đảo quần hùng biết đến.

Võ sư Quang bảo, nghiệp võ với ông cũng hệt như… thuốc lá. Đã “dính” vào rồi thì không thể nào dứt ra cho được. Tuổi lên 10, ông được cha mình truyền thụ võ nghệ. Ông kể, ngày ấy, học võ gian nan lắm.

Cha ông là người nghiêm khắc, lại thêm quan niệm, học võ là để giữ gìn gia phong nên ông phải khổ luyện tối ngày. Đến năm 13 tuổi, với tư chất lanh lẹ, tinh tuý của phái võ gia truyền đã được ông cơ bản lĩnh hội. Tuy không muốn để lộ khả năng võ thuật của mình nhưng tiếng tăm về cậu bé anh hùng xuất thiếu niên ở Phú Cát là ông vẫn ngày một vang xa.

Tiếng lành ấy kinh động đến cả phủ quan, bởi thế, rất nhiều lần, họ triệu tập ông đến chỉ với mục đích được thực mục sở thị ông thi triển quyền cước. Năm 14 tuổi, biết đã hết “vốn” để dạy cho đứa con khiếu võ, cha ông bắt đầu hành trình tìm thầy để mở rộng khả năng cho con mình.

Gần chục năm dòng, hễ thầy nào có tiếng ở Bình Định thì cha ông đều dắt ông tới học. Chỉ một vài năm, thậm chí vài tháng thì lại lên đường đi tìm thầy mới. Bây giờ, một trong những giai thoại tầm sư học đạo của ông vẫn được người Bình Định truyền tai nhau.

Ngày ấy, thầy Hà Trọng Sơn ở Phước Sơn (Tuy Phước) có môn song kiếm thuộc loại tuyệt kỹ, mỗi khi đường kiếm vung lên thì chẳng khác nào phượng múa rồng bay. Nhu cương hài hoà, mềm mại nhưng sự lợi hại thì kinh hồn bạt vía. Độc chiêu ấy, dù đệ tử rất đông, nhưng không ai lĩnh hội vẹn toàn. Theo cha, ông đến và thật ngạc nhiên, chỉ sau ít bữa “ăn nhờ ở đậu”, ông đã “nuốt gọn” nhẹ nhàng. Thậm chí, trong đường kiếm ông đi, có nét nhàn nhã, thảnh thơi chẳng khác gì diều bay giữa trời quang đãng.

Thanh niên, tuy tạng người nhỏ bé, nhưng cũng như bao người luyện võ khác ở Bình Định, ông mải mê với sở thích đi đánh võ đài. Ông kể, thủa ấy, ở Bình Định, bất cứ làng võ nào cũng có võ đài. Người luyện võ thường đăng đài thi thố tài năng, đấu võ để kết bạn, để trau dồi kiến thức. Lần thượng đài nào ông cũng giành cho mình phần thắng.

Đến giờ, người mê võ ở Bình Định hẳn chưa thể nào quên trận thư hùng kinh điển giữa ông và võ sĩ Đào Duy Hạ tại Quy Nhơn.

Trận đấu diễn ra dưới sự cổ vũ cuồng nhiệt của cả mấy trăm người. Hai ông giao kèo đánh 3 hiệp, mỗi hiệp là 1 phút rưỡi. Trong 3 hiệp ấy, ai rớt đài trước thì là người thua cuộc. Vào trận, tuy đã mặc khác màu áo nhưng bởi chiêu thức được tung ra quá nhanh nên khán giả vẫn không thể phân biệt được đâu là ông Hạ, đâu là ông Quang. Ba hiệp đấu trôi qua, cả hai võ sĩ đều thở dốc mà vẫn chưa phân thắng phụ. Đó là trận đấu duy nhất ông gặp đối thủ ngang tài ngang sức.

Ông theo nghiệp tuồng, cũng là một “tài sản” gia truyền. Và, trong cuộc đời nghệ sĩ của mình, ông đã ghi dấu ấn bởi đã đưa võ vào tuồng. Năm 1980, nghỉ hưu, ông về Hà Nội sinh sống. Suốt mấy chục năm sống xa nhà, vào nam ra bắc, ngay chuyện đi tàu của ông cũng có lắm giai thoại. Một lần, bởi khi ra đến nhà ga thì tàu đã chuyển bánh.

Bế hai con nhỏ trên tay, túi khoác trên lưng, ông cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Khi vừa theo kịp thì cửa toa tàu đã đóng im ỉm từ lúc nào, gọi mãi mà chẳng thấy ai mở. Quá cấp bách, chẳng còn cách nào khác, ông đành sử dụng luôn món “Thiết đầu công” mà mình đã khổ công rèn luyện. Cú húc như trời giáng ấy đã làm cánh cửa sắt bật tung. Vẫn ôm con trên tay, ông vọt lên tàu một cách nhẹ nhàng.

Năm 1982, Bình Định Gia chính thức có mặt ở Hà Nội. Ông kể, hồi ấy, buổi sơ khai, võ phái của ông ít người biết đến. Nhưng chỉ một lần kéo đệ tử lên CLB võ thuật quận Đống Đa biểu diễn, võ phái của ông đã làm những quan chức của Sở Thể dục- Thể thao Hà Nội mê mệt. Và, ngay lập tức họ đã mời ông tham gia Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội.

Gặp lão võ sư mấy lần, nhưng đến giờ, trong sâu thẳm những nghĩ suy của ông, nhiều lúc tôi vẫn chưa hiểu được. Trong con người ông, niềm vui, sự hóm hỉnh lúc nào cũng thường trực, nhưng nỗi buồn phiền, thểu não thì cũng ở rất gần.

Nhiều môn sinh của ông kể, trong lúc dạy học trò, thăng hoa, một mình giữa trời ông biểu diễn luôn một tiết mục tuồng khiến mọi người cười ngặt nghẽo. Thế nhưng, có lúc, đang nói cười tếu táo, bỗng dưng nhớ tới người con, cũng là người học trò cưng quá cố, võ sư Trần Hưng Hiệp, ông lại nước mắt nghẹn ngào.

Mà bây giờ, khi tuổi đã về già, cái sự tiếc thương ấy nó đến thường xuyên lắm. Bất cứ cái gì gợi cho ông nhớ đến con mình, đều khiến ông xúc động. Võ sư Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo kể, một buổi đi sinh hoạt ở Liên đoàn võ thuật Hà Nội, gặp lão võ sư, vô tình ông khoe, ông vừa tìm thấy một tấm ảnh ông chụp chung với Hiệp.

Chỉ nghe đến đó thôi, ngay lập tức lão võ sư lại khóc, lại ngồi thảm thiết nhớ về những kỷ niệm của con mình. Ông có 3 người con, 2 trai một gái. Cố võ sư Trần Hưng Hiệp là thứ hai. Với ông thì dường như Hiệp sinh ra là để học võ. Ông kể, ngay từ tấm bé, ông đã phát hiện ra năng khiếu võ thuật thiên bẩm của cậu con trai mình. Bởi thế, những bài quyền, thế cước ông rèn cặp, Hiệp đã lĩnh hội rất nhanh.

Nối nghiệp cha, Hiệp cũng theo học môn Tuồng cổ ở trường Sân khấu- Điện ảnh và dốc toàn bộ thời gian còn lại vào việc luyện rèn võ thuật. Thời gian ấy, hễ nghe tiếng ở đâu có thầy giỏi là ngay lập tức anh tìm đến bái sư theo học. Bởi thế, khi tuổi mới đôi mươi, vốn liếng võ công của anh đã được võ lâm đồng đạo bái phục, kính nể và trở thành vị võ sư trẻ tuổi nhất trong làng võ cổ truyền. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, nhờ có Hiệp mà Bình Định Gia trở nên nổi tiếng, được đông đảo môn sinh theo học, quần hùng mến mộ.

Tuổi trẻ, võ công cái thế, nhưng tính Hiệp điềm đạm, trầm tĩnh, sống nội tâm. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, có lần, trong khu nội trú trường Sân khấu- Điện ảnh, có nhóm đầu gấu bên ngoài vào trường quậy phá, bắt nạt sinh viên. Không muốn va chạm nhưng cũng chẳng thể ngồi yên, Hiệp đành ra mặt.

Chọn tên có vẻ gấu nhất, anh mời vào phòng mình nói chuyện. Thấy cậu sinh viên người nhỏ bé, mặt mũi thư sinh, vị khách mời không những không tiếp thu những lời phải quấy mà còn tỏ thái độ thách thức, chửi bới om xòm. Biết không thể nói suông với kẻ không biết điều ấy, đứng phắt dậy, Hiệp bảo: “Nếu anh thích đánh nhau thì đánh nhau với tôi! Nhưng cho tôi hỏi, chân tay anh liệu có cứng bằng chiếc chân giường này không?”.

Hỏi chưa dứt câu, bất thình lình anh tung chân đá quét. “Dính chưởng”, chiếc chân giường vuông thành sắc cạnh gẫy gập làm đôi, văng ra phía cửa. Nhìn thấy cảnh ấy, “kẻ đầu gấu” mặt cắt không ra máu, ú ớ lùi ra rồi hô lũ đàn em chuồn thẳng. Sau này, bởi ấn tượng với võ công thâm hậu và tinh thần thượng võ ấy, gã đầu gấu đã tìm đến anh, bái làm sư phụ, tu chí luyện rèn võ nghệ.

Cũng trong thời gian ấy, một chiều đi học về, gặp người quen, anh được mời vào quán uống bia. Bàn bên cạnh, mấy gã đã ngà ngà, nói năng toàn lời tục tĩu. Hết chuyện, thấy bàn bên cạnh có cậu trai cứ ngồi im, chẳng nói chẳng rằng (anh không uống được bia) thì lấy làm… ngứa mắt. Chúng buông lời bóng gió cợt nhả, rồi cười hô hố với nhau.

Thấy vậy, anh quay đi, chẳng thèm để ý. Sự phớt lờ của anh khiến chúng càng thêm tức tối, ỉ đông, chúng quay sang gây sự. Mấy “chiến hữu” cùng bàn với anh ai cũng nóng mắt, nhưng thấy “quân ta” yếu thế hơn nên chẳng ai dám động thủ. Trấn an các bạn, anh đứng dậy quay sang bàn bên.

Giơ cốc bia đang uống dở lên, hướng về phía đối phương, anh bóp mạnh. Chiếc cốc vỡ vụn, phát ra những âm thanh sởn ga gà. Chưa dừng lại, tay phải anh tung luôn một cú thôi sơn vào bức tường kiên cố ngay bên cạnh. Cú đấm uy lực, thấy đã gặp phải cao thủ, biết có đông cũng đánh không lại, nhóm anh chị bàn bên bỗng im phăng phắc. Phía bên này, sau những cú thị uy ấy, Hiệp lại chậm rãi ngồi xuống uống bia như chẳng có chuyện gì.

Cho đến bây giờ, võ lâm đồng đạo vẫn suy tôn Linh giác công của Trần Hưng Hiệp là thiên hạ đệ nhất, không ai bì kịp. Biểu diễn tuyệt chiêu này đòi hỏi người võ sư phải có công lực thượng thừa và cái tâm luôn tĩnh. Với tuyệt chiêu này, đã nhiều lần Hiệp làm người xem thót tim vì sợ.

Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, khi biểu diễn Linh giác, Hiệp thường đặt quả cam, táo, hoặc một mẩu thân chuối dài chừng gần chục cm lên đỉnh đầu người đối diện. Sau ấy, bằng mảnh vải đen, anh bịt kín mắt mình, tay cầm kiếm sắc, từ từ tiến tới. Mắt bịt kín, nhưng bằng giác quan, anh vẫn xác định được vị trí của mục tiêu và vung kiếm chém tới.

Dù chém ngang, hay dọc thì đường kiếm ngọt ngào ấy cũng chỉ phạt đôi vật thể trên đầu chứ chẳng mảy may làm tổn thương một cọng tóc của người trợ diễn. Ngay cả lão võ sư, đã nhiều lần xem con mình biểu diễn, nhưng lần nào ông cũng… hoảng. Ông cấm con mình tuyệt đối không được dậy chiêu thức nguy hiểm ấy cho ai. Dặn con vậy không phải vì ông muốn giữ độc chiêu cho gia đình mình mà vì sợ. Đám học trò hiếu động, học chưa đến nơi đến chốn, chém phạt đầu nhau thì vô cùng nguy khốn.

Tuy quá nổi danh với Linh giác công nhưng sau này, mọi người đã không được thấy anh biểu diễn tuyệt chiêu này nữa. Nguyên nhân, theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì con ông là người cẩn trọng, không bao giờ thích chuyện phiêu lưu hay những trò chơi nguy hiểm. Bởi thế, một lần, diễn Linh giác bị hỏng, anh đã quyết tâm từ bỏ sở trường này.

Lần ấy, Bình Định Gia tổ chức biểu diễn ở Nhà văn hoá huyện Từ Liêm. Tiết mục Linh giác trứ danh của Hiệp được toàn thể khán giả đón đợi. Lần thứ nhất, quả táo Tầu nhỏ xíu trên đầu người trợ diễn đã bị anh chém toác đôi. Nhiều người kinh hãi không dám nhìn nhưng cũng nhiều người ưa cảm giác mạnh, muốn anh diễn lại. Không thể chối từ thịnh tình của người mến mộ, anh lại bịt băng đen che mắt, lại tiếp tục diễn trò.

Thế nhưng, khi thanh kiếm sáng loáng trong tay vừa vung lên thì anh bỗng khựng người lại, buông kiếm xuống. Tiếp tục một lần nữa cũng vẫn vậy, thanh kiếm trên tay anh chẳng thể lượn một đường ngọt sớt như nó vẫn thường thi triển, vẫn làm người xem kinh hãi. Có lẽ, linh giác đã mách bảo anh rằng, trong một tâm trạng không được thoải mái, anh không nên dụng trò nguy hiểm ấy.

Đắn đo, sau cùng, anh đã xin lỗi khán giả và thay bằng việc đặt quả táo lên đầu người trợ diễn thì anh đặt quả táo lên thành ghế. Nhát kiếm chí tử được tung ra. Quả táo bị chém phạt phần dưới, tung lên rồi lăn lông lốc trên sàn nhà. Mọi người vẫn vỗ tay dầm dập. Thế nhưng, trên mặt anh vẫn không thấy nụ cười. Chào khán giả, anh vội vàng lùi vào phía trong.

Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, về nhà, con trai ông đã kể cho ông “sự kiện lạ lùng” ấy. Và, anh còn tiết lộ, hàng đinh đóng trên thành chiếc ghế đã bị anh chém bay hết mũ. Nếu hôm ấy, nếu là người thật thì không biết hậu quả thế nào. Vậy là, nghe theo lời khuyên của ông, cùng với tính cẩn trọng của mình, anh đã từ bỏ môn võ mà mình đã khổ công rèn luyện.

Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, hôm nghe tin con trai mình mất, ông chết điếng và cả mấy tháng sau, cứ thấy mình như đi trên mây khói.

Huyền thoại những đệ nhất võ lâm trời Nam (kỳ 1)

Bài đăng trên 24h.com.vn

Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Sống dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quãng thời gian mà tinh thần thượng võ bị triệt tiêu tới mức tối đa (phòng ngừa phản kháng), họ đã là cầu nối, đã bôn ba khắp nơi để tầm sư, rèn võ, cứu rỗi cả nền võ thuật Việt Nam trong buổi suy tàn. Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ nhưng tài đức của họ thì vẫn là tiếng thơm để hậu bối noi theo...


Đệ nhất roi Hồ Ngạch và hai lần đánh cướp Dư Đành
Luận về võ công, không thể không nhắc đến đất võ Bình Định, cụ thể hơn là những địa danh như Thuận Truyền, An Vinh, An Thái. Những địa danh trên đã đi vào ca dao, huyền thoại bởi là nơi phát tích, “nuôi nấng” những dòng võ cũng như những võ sư danh trấn thiên hạ.

Đến giờ, tại nơi nghĩa quân Tây Sơn dấy binh đánh đuổi quân thù ấy vẫn còn truyền tụng những câu tục ngữ nói về tinh thần thượng võ của những địa danh này. “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” hay “Trai An Thái, gái An Vinh”… Thôn Thuận Truyền nằm ở xã Bình Thuận, thôn An Vinh thuộc xã Bình An (quận Bình Khê), An Thái thuộc xã Nhơn Phúc huyện An Nhơn, giờ vẫn tồn tại rất nhiều những lò võ nức tiếng xa gần.

Roi Thuận Truyền không rõ sáng tổ là ai nhưng từ trước đến nay vẫn tôn vinh tên tuổi của võ sư Hồ Ngạch. Hồ Ngạch tên thật là Hồ Nhu, ông sinh năm 1891, mất năm 1976, nguyên quán thôn Háo Ngãi, xã Bình An, sinh sống tại thôn Thuận Truyền, Bình Thuận. Cha ông là Đốc Năm (Hồ Đức Phổ), một võ quan của triều đình Huế, mẹ ông bà Lê Thị Huỳnh Hà, cũng là một người nức tiếng giỏi võ trong vùng.

Cố võ sư Hồ Ngạch

Bởi thế, ngay từ nhỏ, ông đã được cha mẹ truyền dạy võ công. Lớn lên, ông được gia đình gửi vào lò võ của cao sư Ba Đề, tiếp đến là Đội Sẻ, Hồ Khiêm, toàn những người nổi tiếng. Bởi thế, từ những đường roi của các cao nhân như Ba Đề, Hồ Khiêm kết hợp với nội công học được từ thầy Đội Sẻ đã tạo ra một Hồ Ngạch với những đường công biến hoá, sâu hiểm khôn lường. Theo sự truyền tụng của giới võ lâm khi ấy, đường roi của Hồ Ngạch là tuyệt kĩ vô song. Sau hơn chục năm lăn lộn với côn, quyền tiếng tăm của Hồ Ngạch ngày một vang xa hệt như diều gặp gió.

Hồ Ngạch vốn trầm tĩnh, ít nói và đặc biệt, ông không bao giờ để lộ tài năng võ thuật của mình. Tuy thế, trong đời luyện võ của mình, ông đã để lại rất nhiều giai thoại, đó là những trận so tài với các cao thủ võ lâm có một không hai.

Có lẽ, hữu xạ tự nhiên hương, bởi danh tiếng lẫy lừng, nên Hồ Ngạch thường được những người học võ tìm đến để thi thố tài nghệ. Dân Bình Định đến giờ vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện Hồ Ngạch bị các cao thủ khiêu chiến, thậm chí cả “đánh úp” hết sức lạ lùng. Các cao nhân thử tài với Hồ Ngạch thì nhiều lắm, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những trận thư hùng với lực sĩ Dư Đành.

Dư Đành là tướng cướp, về võ công thì đến cả quân lính triều đình khi nghe thấy tên cũng đã hồn xiêu phách tán. Tung hoành khắp vùng không có đối thủ, nghe tiếng Hồ Ngạch, Dư Đành nhiều lần gửi lời khiêu chiến. Chối từ mãi không được, sau cùng Hồ Ngạch cũng phải nhận lời thách đấu. Lần ấy, Dư Đành đem lũ lâu la về tận Thuận Truyền và hống hách đưa ra điều kiện, nếu Hồ Ngạch đấu thua thì phải ra nhập đảng cướp của y.

Vậy là, tại bãi vắng ngay sát thôn Thuận Truyền đêm ấy, một mình Hồ Ngạch đã đánh bại cả chục tên đệ tử của Dư Đành, vốn đều là những cao thủ võ lâm. Khi đám tay chân mỗi tên nằm một góc thì Dư Đành xuất hiện. Phải nói thêm rằng, Dư Đành có sức mạnh chẳng ai sánh kịp. Đã có lần, để diễu võ dương oai, một tay y đã cắp cả một con nghé hệt như người ta nhẹ nhàng bồng trên tay đứa trẻ. Với thanh đao sáng loáng trên tay, vừa xuất hiện là Dư Đành tung đòn tới tấp. Thế nhưng, với đường roi thượng thừa của mình, Hồ Ngạch cũng chẳng hề nao núng. Đánh mãi mà vẫn không tìm được kẽ hở để “ăn sống nuốt tươi” đối phương, Dư Đành thấy máu nóng dồn lên mặt.

Và khi ấy, Hồ Ngạch đã ra đòn tuyệt kỹ. Tránh đòn truy hồn của đối phương, ông nhẹ nhàng tung người đá văng thanh đao cắm xuống đất, đồng thời xoay người giở đòn đánh nghịch. Biết đã vào thế hiểm, tiến thoái lưỡng nan, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành đã thở phào choàng tỉnh bởi đường roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa.

Trận thư hùng ấy, dù đã nợ Hồ Ngạch một mạng nhưng Dư Đành vẫn không chịu phục. Y rắp tâm kiếm cơ hội trả thù. Bởi thế, một chiều, đang mải mê với những chiêu thức võ thuật thì Hồ Ngạch được mọi người báo tin không biết ai đã đến nương sắn nhà mình và nhổ hết sắn đóng vào những giỏ lớn. Điều lạ lùng là tất cả số sắn đó, kẻ trộm không lấy mang đi mà vẫn để nguyên trên rẫy. Hồ Ngạch đâu biết rằng đó là một âm mưu của Dư Đành.

Ra rẫy, thấy sắn bị nhổ, chẳng còn cách nào khác, Hồ Ngạch đành phải quẩy những sọt sắn trĩu nặng ấy về. Vừa đi được một đoạn thì từ bụi cây bên đường, Dư Đành vọt ra với chiếc bắp cày trên tay. Chẳng nói chẳng rằng, y tung luôn một đường sát thủ. Nghe tiếng gió, Hồ Ngạch vội thụt xuống, đường cày vụt qua đầu, văng thẳng vào cây bồ lời làm thân cây gẫy gập.

Lợi dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ Ngạch tức tốc áp sát, nhanh như chớp, chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng thế lạc côn, không những hoá giải mà còn biến sức đối phương thành lực của mình, hất thẳng Dư Đành xuống bụi tre gần đó. Mắc kẹt giữa đám tre gai góc, lúc ấy, Dư Đành mới khẩn khoản xin tha và hứa từ đó không bao giờ dám về làng Thuận Truyền quậy phá nữa.

Tỉ thí võ thuật Nam Hàn vinh danh làng quyền cổ

Sáng tổ của làng quyền An Vinh là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Bởi thế, Nguyễn Ngạc xuất thân trong một gia đình có truyền thống võ học.

Tiếp thu sở học của gia đình cũng như nhiều tiền nhân lúc bấy giờ, chuyên tâm nghiên cứu quyền pháp, Nguyễn Ngạc đã sáng tạo ra nhiều tuyệt kỹ điêu luyện, đặc biệt là ngón song xỉ đã nức danh khắp chốn. Quyền An Vinh thiên về đánh hiểm, đánh móc, đánh không hết tay, phản đòn nhanh, liên tục. Khi đánh, thường phải áp sát đối phương mới tìm được lợi thế cho mình. Nguyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú, tiếng tăm lừng lẫy. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ…

Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ, sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo. Năm 1935, Bảy Lụt cùng em mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn sinh khắp nơi biết đến.

Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy, nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ, người gốc Bình Nghi (Tây Sơn) người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn phái quyền An Vinh.

Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông bảo, ông là người may mắn bởi được sinh ra ở cái nôi của võ thuật Tây Sơn. Mê võ, thủa thiếu niên, đã nhiều lần ông xin gia đình bán ruộng, bán bò để quyết chí theo đuổi sở thích của mình. Ông được lĩnh hội võ thuật cao siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông học từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ, lăn khiên, chuỳ… ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước, xích, độc bút, xà mâu, đinh ba… ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch.

Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông được thầy Bảy Lụt dày công dạy dỗ. Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võ sư Phan Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng.

Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa. Năm 1972, một võ sư taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã tìm đến ông gửi lời khiêu chiến. Bị “áp đáo tại gia”, dù mến khách nhưng không có cách nào khác, ông phải nhận lời.

Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc, Phan Thọ cúi người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành… nạn nhân bất đắc dĩ. Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển. Thủ thế đến chiêu thức thứ ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chảo chớp của mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo, hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng soài ngay góc nhà.

Và, đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục. Tuổi xưa nay hiếm nhưng lão võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi ấy, năm 1998, một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc lại tìm đến nhà ông. Họ cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp như taekwondo nước họ.

Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng với khi đã chạm đến lòng tự hào dân tộc, lão võ sư lại sắn áo “thượng đài”. Lợi dụng sức trẻ, võ sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mang vữa tường rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ chớn. Chỉ chờ có vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đòn ấy, đám khách không mời đã phải chắp tay: “Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền!”.

Long tranh hổ đấu

Năm 1924, làng võ Bình Định xuất hiện thêm một dòng võ mới đó là quyền Tàu. Người sáng lập ra dòng võ này là Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An Thái. Tuy là người Trung Quốc nhưng gia đình Diệp Trường Phát sinh sống ở An Thái đã được mấy đời.

Hấp thụ tinh thần thượng võ từ An Thái, 13 tuổi, Diệp Trường Phát được gia đình gửi về Trung Quốc để học võ từ các cao sức của Thiếu lâm Bắc phái. Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, 28 tuổi, Diệp Trường Phát trở lại An Thái mở lò dạy quyền Tàu. Đến giờ, dân làng An Thái vẫn truyền tai nhau chuyện thi tài giữa Sáu Tàu và đệ nhất roi Hồ Ngạch. Bởi đó là cuộc thí võ kết bạn nên hai bên đã giao ước không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục đối phương.

Trước sự chứng kiến của nhiều môn đồ, hai ông giao kèo lấy một tuần nhang là một hiệp đấu. Sau hiệp đấu quyền, khán giả đếm được những vết mực trên áo hai người là như nhau, tuy thế, Hồ Ngạch vẫn chắp tay bái phục Tàu Sáu, thừa nhận mình kém hơn một bậc. Khán giả hết sức ngạc nhiên.

Khi ấy, Hồ Ngạch mới giải thích, các vết mực Tàu Sáu lưu trên y phục mình có phần nhạt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, đường quyền thế cước của Tàu Sáu đã ở mức thượng thừa. Bởi vậy nên ông mới có thể vận hành công lực như ý muốn nên đòn ra mới nhẹ nhàng, dấu mực mới nhạt. Nếu cũng những quyền thế ấy, thi triển hết 12 thành công lực thì sức mạnh sẽ rất kinh hoàng, có thể lấy mạng người trong chớp mắt.

Về côn, tuyệt kỹ của Hồ Ngạch, hai bên cũng quần thảo kinh hồn. Người xem chỉ thấy tiếng gậy va vào nhau chan chát còn bóng người thì lấp loá, mờ ảo. Sau tuần nhang, Tàu Sáu thấy trên người mình nhiều vết mực hơn. Trước đông đảo mọi người, ông đã chắp tay bái phục: “Đoản côn ở Thuận Truyền chỉ có Hồ Ngạch làm chủ!”.

Phiêu bạt tìm thầy

Về tinh thần thượng võ, ham học hỏi của người Việt, bây giờ, cụ Hàn Bái (Lê Bái) sáng tổ Hàn Bái đường, Thiếu lâm Hài Bái vẫn được giới võ lâm hết mực tôn thờ. Lê Bái sinh năm 1889, xuất thân từ một gia đình quyền quý.

Ngày ấy, người Pháp cho xây dựng tuyến đường sắt nối liền Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc) với Hải Phòng bởi thế giao lưu đi lại đã thêm bề thuận tiện. Biết Trung Hoa là nơi có nhiều kỳ tài võ học nên Lê Bái đã xin làm Sở Hoả xa tại tỉnh Vân Nam để tìm cơ hội trau dồi võ nghệ. Sau một thời gian nghe ngóng, thấy ở Phúc Kiến có bậc cao nhân từng làm giáo đầu trong triều, Lê Bái đã xin nghỉ việc để tìm lên thọ giáo.

Vị sư phụ ấy họ Lý, tên Quân ở Trung Hoa đã danh vang tứ hải. Thấy Lê Bái khôi ngô, tinh hoa phát tiết, Lý sư phụ mừng lắm, vui vẻ thu nạp làm đệ tử. Thế nhưng, trước khi bái sư, Lý sư phụ muốn thử tài năng của cậu học trò mình. Trước thịnh tình của vị sư phụ Lê Bái cũng chẳng khách khí, xuất luôn chiêu Hắc hổ xuyên tâm, đánh thẳng vào ngực đối phương với dự tính trong đầu, nếu bị hoá giải sẽ tiếp tục dùng thức Thanh xà nhập động sở trường của mình mà tấn công đối thủ.

Thế nhưng, dự tính ấy đã bị vị quyền sư bắt bài. Ông không gạt tay đối thủ mà nhẹ nhàng tóm thẳng cổ tay, giật xuôi theo đà lao của Lê Bái, đồng thời, quét luôn chân trụ của đối phương, hất văng xa ra. Tuy đau đớn nhưng cú đánh ấy làm Lê Bái mừng rơn. Bái biết, đấy đích thị là người thầy mà bấy lâu nay mình tìm kiếm.

Ba năm luyện võ tại nhà Lý sư phụ, Lê Bái đã trưởng thành, tên tuổi cũng đã lừng danh khu Phúc Kiến. Khi ấy, Lý sư phụ đưa cho người đệ tử yêu của mình lá thư tay, nói là quay lại Vân Nam tìm thầy Triệu Quang Chảo, một cao nhân của Thiếu lâm. Theo Lý sư phụ thì tuy là bạn nhưng luận về võ công, so với Quang Chảo, ông chỉ là hậu bối.

Quay lại Côn Minh, Lê Bái tiếp tục những tháng ngày khổ luyện và đến năm 1918 thì trở về quê nhà. Sau một thời gian kỳ bạt giang hồ, dạy võ ở khắ nơi, thọ bệnh, ông mất năm 1928, khi vừa tròn 40 tuổi. Bây giờ, đệ tử của ông, tiêu biểu là đại sư Vũ Bá Oai vẫn tiếp tục sự nghiệp hiển hách, hoằng dương tinh thần thượng võ của vị sư phụ kỳ tài của mình.

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2011

'Đòn ngoại giao' của cha ông khiến ngoại bang nể sợ

Bài đăng trên Baodatviet.vn
(ĐVO) Trước những mưu đồ thôn tính, xâm lược, cha ông đã vận dụng sách lược ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên định, cương quyết, không chỉ nhằm bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền mà còn khiến ngoại bang phải chùn bước, nể sợ. Đất Việt trích đăng một số một số sách lược ngoại giao của các bậc tiền nhân, để hậu thế suy ngẫm.


1. Năm Canh Dần (990), vua Tống Thái Tông cử Tống Cảo làm Chánh sứ và Vương Thế Tắc làm Phó sứ mang chiếu thư sang gia phong cho Lê Hoàn (941-1005) chức “Đặc tiến”. Đó là một chức quan to dưới hàng tam công, chỉ vua chư hầu nào có công đức, được triều đình Trung Quốc kính trọng mới được phong chức này. Trước đó, sau khi đánh tan cuộc xâm lược của nhà Tống vào năm 981, Lê Hoàn mới được vua Tống phong Tiết Trấn (985), rồi Kiểm hiệu Thái bảo sử trì tiết đô đốc Giao châu chư quân sự, An Nam đô hộ, Tĩnh hải quân tiết độ sứ (986), Kiểm hiệu Thái ủy (988).


Năm Canh Dần (990), Hoàng đế Lê Hoàn đã có cách đón tiếp sứ Thiên triều thật độc đáo. Vua Lê đã sai tướng Đinh Thừa Chính mang 9 chiến thuyền và 300 quân sang tận Liêm Châu thuộc Quảng Đông, Trung Quốc để đón sứ giả theo yêu cầu của nhà Tống, nhưng đây cũng là cách để giám sát các hoạt động của sứ thần. Mặt khác, ông cũng muốn cho sứ giả thấy đến kinh đô Đại Cồ Việt xa xôi, vất vả thế nào. Đoàn thuyền đi hơn nửa tháng mới tới cửa sông Bạch Đằng và đến tận tháng 10 năm đó, sứ bộ mới đến được trạm đón tiếp gần kinh thành Hoa Lư.
Khi đến kinh đô, để cho sứ thần thấy được sức mạnh của Đại cồ Việt về quân sự cũng như sự sung túc về kinh tế, Lê Hoàn đã tổ chức diễu binh, diễn tập quân sự trên sông nước và trên bộ. Trên sông, thủy quân dàn trận, chiến thuyền san sát, quân sỹ reo hò chèo thuyền, khua chiêng, trống vang trời. Thấp thoáng trong sườn núi, bộ binh quân phục rực rỡ đi lại tấp nập, cờ xí, khí giới rợp trời, bụi bay mù mịt. Còn trên cánh đồng mêng mông, hàng vạn con trâu bò rong ruổi.

Lê Hoàn cưỡi ngựa cùng đoàn tùy tùng ra ngoài thành đón sứ thần. Gặp sứ Tống, Lê Hoàn vẫn ngồi trên mình ngựa chỉ khẽ nghiêng mình thi lễ, sau đó thong dong cùng vào thành.

Trong cung vua, ở cửa Minh Đức, vua giơ tay đón lấy bài chế của vua Tống từ tay sứ giả để lên trên điện, song không lạy. Ông giải thích vừa đi đánh giặc Mán, ngã ngựa, chân đau, không lạy được. Chánh sứ Tống Cảo cũng đành chịu. Theo nghi lễ của Trung Quốc lúc đó, khi nhận chiếu thư của Thiên triều, vua các nước chư hầu đều phải lạy. Đây là lần đầu tiên, vua nước ta nhận chiếu thư không lạy.

Lê Hoàn đã cho mở đại yến tiệc ngoài bãi biển để chào mừng sứ thần. Chủ và khách vừa ăn tiệc vừa múa hát và lấy trò đâm cá làm vui. Có lúc Hoàng đế Lê Hoàn và các quan dự yến cởi cả mũ áo, cân đai cùng tham gia trò đâm cá. Mỗi khi có người đâm được cá thì hò reo nhảy múa. Sứ Tống tỏ ra lúng túng. Bỏ cân đai, hia, mũ áo tham gia đâm cá thì còn gì thể thống của sứ Thiên triều, mà ngồi yên thì không khỏi sượng sùng.

Vua Lê còn mời sứ giả xem những người lính Đại Cồ Việt tay không đánh nhau với hổ trong sân nhà vua. Hổ dữ gầm thét lồng lộn để vồ lấy người, nhưng đã bị những người lính “tặng” quả đấm như trời giáng vào hai thái dương và bị đạp vào chỗ hiểm nên chỉ còn điên cuồng giãy giụa. Sau trận đấu hổ là trò trăn dữ biểu diễn. Trăn có thể nuốt người ăn thịt hoặc vặn mình cho đến nát, song đã bị người lính bé nhỏ điều khiển, cho quấn lên cổ mà không khiếp sợ. Lê Hoàn còn hỏi sứ giả có dám ăn thịt trăn thì làm thịt thết đãi. Tống Cảo sợ khiếp vía và từ chối.

Cách đón tiếp sứ Thiên triều của Hoàng đế Lê Hoàn thật độc đáo. Ông đã cho sứ giả thấy sức mạnh quân sự của Đại Cồ Việt - từng đánh tan cuộc xâm lăng của quân Tống và đánh thắng quân Chiêm Thành, vua tôi có bản lĩnh kiên cường, người Việt dũng mãnh, kiên cường đánh nhau cả thú dữ, uy hiếp tinh thần sứ giả và còn đường đến kinh đô Đại Cồ Việt xa xôi, hiểm trở và vô cùng vất vả. Lê Hoàn đã nói thẳng với Tống Cảo: Đường sá xa xôi, núi non hiểm trở này nếu có quốc thư cứ xin giao nhận ở biên giới, khỏi phiền sứ giả đến Hoa Lư. Vua Tống đã đồng ý.

2. Sau khi chiếm được thành nhà Lê (Thăng Long), Càn Long ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị ráo riết thực hiện kế hoạch truy bắt Nguyễn Huệ, kể cả việc đánh vào vùng Quảng Nam (1), sào huyệt của quân Tây Sơn, sau đó, tìm cách chiêu dụ Nguyễn Huệ ra hàng. Bị Nguyễn Huệ đánh tan nát tại Thăng Long vào đầu xuân Kỉ Dậu (1789), Tôn Sĩ Nghị đem tàn quân tháo chạy về nước. 20 ngày sau, Càn Long hay tin bại trận liền tức tốc cách chức tổng đốc của Tôn Sĩ Nghị, điều Phúc Khang An, người vừa chiến thắng tại Đài Loan trở về kiêm chức tổng đốc Lưỡng Quảng, đồng thời liên tiếp ban ra nhiều chỉ dụ để đối phó với tình hình cấp bách. Thang Hùng Nghiệp tiếp sứ và gửi thư cho Quang Trung, đại ý: Lê Duy Kì bỏ nước mà trốn, Thiên triều quyết không đem nước An Nam cho y nữa. Hãy thừa lúc trước khi chưa vâng dụ chỉ, ủy thác ngươi gõ cửa quan kêu xin, ngõ hầu có thể ngưỡng cầu ân điển.


Và vì quá nể phục Hoàng đế Quang Trung, Càn Long đã thực hiện chính sách đối xử tàn tệ với bọn vua quan lưu vong Lê Chiêu Thống, kể cả sau ngày vua mất. Về phía vua Quang Trung, sau khi đại phá quân Thanh, đã có chủ trương cầu hòa, cử người lên vùng biên giới phía bắc để thương thảo. Vua liền sai Hô Hổ Hầu dâng biểu cho Càn Long với lời lẽ nhún nhường: "Tha thứ cho thần cái tội đón đánh Tôn Sĩ Nghị, lượng cho lòng thành của trẫm đã lắm lần gõ cửa quan trấn tấu, cho thần làm An Nam Quốc vương...". Nhưng có lúc Nguyễn Huệ cũng rất khẳng khái: "Này đường đường là triều đình Thiên tử lại đi so hơn thua với nước nhỏ thì ắt là muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo thì thật cái lòng của Thánh thượng không nhẫn."
Và Quang Trung thách thêm: "Trong muôn một nếu can qua nối tiếp không dứt, tình thế đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần cũng không dám biết nữa.".

Đọc thư, Thang Hùng Nghiệp thấy kinh, bảo với sứ giả Hô Hổ Hầu rằng: Nay không phải là lúc hai nước đánh nhau, sao lại hành sự toàn một giọng giận dữ? Nói thế là chẳng muốn cầu phong tước hay muốn gây mối can qua chăng? Rồi trả lại văn biểu không dám đệ đạt lên Càn Long.

Càn Long cũng biết việc trả lại biểu và xem đó là điều cần thiết để răn đe. Trong Chỉ dụ 03-02-CL54 (27-02-1789) có ghi: "Nguyễn Huệ chỉ mượn việc dâng biểu để thử lòng chúng ta mà thôi, nay chỉ ném trả biểu lại, sợ không đủ để y chấn động sợ hãi mà kiên định sự hối tội đầu thuận". Càn Long còn căn dặn thêm: "Hãy dùng lời hịch dụ nghiêm khắc, khiến Nguyễn Huệ thấy Thiên triều không chuẩn sự qui thuận, sợ hãi uy danh, sẽ sai người cho quan binh trở về, cho trãi ba, bốn lần khẩn cầu, lúc này Phúc Khang An sẽ tuân theo chỉ dụ trước, tùy cơ tâu lên xin chiếu chỉ để liệu biện"..

Tuy nhiên, nghĩ rằng lời lẽ cứng rắn quá, sợ Quang Trung bỏ cuộc, không chịu qui hàng, nên trong chỉ dụ sau, Càn Long ma mãnh dặn lại "Phúc Khang An truyền hịch dụ Nguyễn Huệ, trong sự nghiêm khắc nên mở một con đường... Truyền dụ minh bạch như vậy, bọn Nguyễn Huệ không thấy tuyệt vọng, tất sẽ khẩn thiết khất hàng."

Phúc Khang An đã lệnh cho Thang Hùng Nghiệp làm môi giới, bàn bạc, cò kè bớt một thêm hai với sứ thần của Tây Sơn là Nguyễn Hữu Điều, Vũ Huy Tấn các vấn đề liên quan và góp ý xây dựng một biểu văn mới trình lên Càn Long lời lẽ nhu hòa: "Thần đã nhiều lần sai người gõ cửa quan xin tội, cùng đưa về những quan binh chưa chạy ra khỏi nước An Nam. Còn những người sát hại quan Đề, Trấn thì trót đã mắt thấy xử theo pháp luật ...Vốn phải đích thân đến kinh khuyết trần tình xin tội, nhưng trong nước gặp việc binh đao, nhân tình chưa yên, kính cẩn sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển theo tờ biểu vào chầu"(4). Đó là cách từ chối khéo léo, là cách hoãn binh để thăm dò tình hình trước đòi hỏi của Nhà Thanh là Quang Trung phải đích thân đến kinh khuyết.

Càn Long vui mừng nhận biểu và gửi lại Quang Trung một đạo dụ ngày 03-5-CL54 (27-5-1789), lời lẽ không còn mang tính đe dọa như trước. Ngay việc Quang Trung đánh tan tác quân Thanh vừa rồi, Càn Long cũng cho rằng không phải do Quang Trung cố ý gây ra mà chỉ là ngộ sát và hạ giọng nhân nghĩa: "Trẫm thương người thành tâm hối lỗi, nên việc dĩ vãng không muốn truy cứu".

Nhưng Càn Long vẫn còn eo sách chỉ chấp thuận Quang Trung trực tiếp sang cầu phong chứ không chấp thuận cử người đi thay. Tuy vậy, Càn Long cũng gợi ý mở đường: "Nếu như ngươi có lòng thành, hãy đợi đến tháng 8 năm thứ 55 nhân dịp lễ khánh thọ 80 của Trẫm, thời điểm này tính đến nay còn hơn một năm, trong nước ngươi chắc đã thu xếp yên ổn, lúc bấy giờ hãy bẩm với viên Tổng đốc xin đến kinh khuyết".

Cuối cùng, Càn Long cũng giảng hòa. Đôi bên thỏa thuận, năm 1789, Nguyễn Quang Hiển sang chiêm cận và được đón tiếp nồng hậu. Ngày 24-7-CL54 (13-9-1789), Chánh sứ Nguyễn Quang Hiển, Phó sứ Nguyễn Hữu Điều, Vũ Huy Tấn và đoàn tùy tùng được thiên tử tiếp đãi tại Quyền A Thắng cảnh. Càn Long rất vui mừng khi được sứ thần ta thông báo vua Quang Trung chờ lúc việc nước tạm yên cũng sẽ đích thân đến kinh khuyết chiêm cận.

Để Quang Trung yên tâm đến Bắc Kinh, Càn Long dặn Phúc Khang An "hãy cho Nguyễn Huệ biết một cách khắc thiết như vậy sẽ không còn nghi ngờ gì nữa... Và hãy lệnh cho Nguyễn Quang Hiển đem tình tiết này biên thư cho Nguyễn Huệ hay để lòng y không còn nghi ngờ" (CD 23-5-CL54). Khi Nguyễn Quang Hiển về nước, Càn Long đặc cách ban cho Nguyễn Huệ gấm vóc các loại để làm nổi bật sự ưu đãi và tỏ rõ "nỗi vui mừng được gặp nhau sẽ không xa".

Yêu sách chính của Càn Long, là làm sao vua Quang Trung đến kinh khuyết chiêm cận, xem như đã biết hối lỗi, một hình thức qui phục để rửa nhục thất trận của thiên triều, để xóa đi sự bẽ mặt của mình trước thần dân. Đó là một đòi hỏi cũng chỉ vì oai danh mà thôi. Vì vậy, Càn Long tích cực chỉ đạo cho Phúc Khang An liên hệ với An Nam để việc này trở thành hiện thực.

Mục đích đó đã đạt được. Ngày 29- 3- CL55 (13-5-1790) phái đoàn Quang Trung khởi hành đến Bắc kinh, như trông mong của Càn Long, mở đầu cho một thời kì bang giao mới giữa hai triều đại nhà Thanh-Tây Sơn giai đoạn hậu chiến. Và vì quá nể phục Hoàng đế Quang Trung, Càn Long đã thực hiện chính sách đối xử tàn tệ với bọn vua quan lưu vong Lê Chiêu Thống, kể cả sau ngày vua mất.

3. Năm Tân Mão (1831) đời Minh Mạng nhà Nguyễn, ở Hưng Hóa (1) có một thổ tù là Đèo Văn An, vì phạm lỗi nên đã bỏ trốn sang Vân Nam nước Thanh. Bọn quan quân ở đây nhân muốn xâm lấn lãnh thổ nước ta, liền viện cớ tra xét sự việc, cứu giúp người bị oan rồi hội binh áp sát biên giới.


Dưới thời vua Minh Mạng, một viên lãnh binh đã có một việc làm với nhà Thanh thật đáng khâm phục. Nghe tin cấp báo, viên lãnh binh Thắng trông coi việc quân ở Hưng Hóa được lệnh dẫn binh đi đối phó. Để khiêu khích, quân Thanh gửi sang một bức thư dọa nạt, lời văn ngạo mạn, hống hách. Trước sự việc đó, lãnh binh Thắng một mặt cho quân lính tích cực chuẩn bị, sẵn sàng ứng chiến, mặt khác viết thư trả lời nêu rõ tội trạng của Đèo Văn Anh. Trong bức thư trả lời của lãnh binh Thắng, đề ngày 26 tháng 7 năm Tân Mão (1831) có đoạn:
“… Các người đã vì nó mà đến để tra cứu làm việc, nay sự lý đã rõ ràng như thế, tự nên chỉ rõ cho nó để điều đình cho yên việc. Thế là không những chỉ bảo toàn được cho một mình Đèo Văn An mà không đến nỗi phải gây động can qua, nhân dân không đến nỗi gặp tai họa, mới là tốt lại càng tốt đấy!

Chúng tôi vâng mệnh quan trên đến đây để giữ gìn đất đai bờ cõi, vốn không chịu đối trận giao binh với các người một cách dễ dàng, nhưng xưa nay muốn giữ được trọn vẹn hòa hảo thì trong lòng hai bên đều cần phải bỏ qua đi, thì mới trọn vẹn được.

Nay nhận được tờ trát đưa đến, nói các lời rằng: “Nếu đến nỗi gây động can qua thì chúng bay không khỏi người mệt, lương thiếu”, thật là đa tạ các người đã uổng phí lòng chiếu cố rồi đấy. Núi là đường của chúng tôi, ruộng là lương của chúng tôi, có gì là mệt với thiếu? Chỉ sợ các người xa thì thiếu thốn thôi.

Các người lại nói các lời rằng: “Đến nơi gần mà điều binh sẽ được ngay tám chín nghìn tên. Lấy người nhàn rỗi mà đối địch với kẻ mệt nhọc”. Các người vượt bờ cõi đến đây còn phải mất công triệu tập, chứ đấy là trong nhà chúng tôi, cỏ cây đều là quân lính, một hai vạn cũng có chứ sao lại chỉ có tám chín nghìn? Thì ai là nhàn rỗi, ai là mệt nhọc?

Chúng tôi kính thuận là vì nên làm theo nghĩa lý chứ không phải là đất đai và quân lính yếu. Trong các người phần nhiều là người đọc sách biết thời vụ, há không nghe thấy công việc từ thời Nguyên, thời Minh tới nay mà so sánh với công việc của nhà Trần, nhà Lê đấy sao? Các người đã hẹn với chúng tôi là mười ngày thì xong việc, thế mà bấy lâu không thấy rút quân, há không phải là theo lối cũ làm chước hoãn binh, hoặc lại tụ tập bọn khác đến mưu hại chúng tôi đấy sao?

Nếu ngày nay, bọn con em chúng tôi không ngại phiền phức thì cứ tiến lên một bước là đánh một bước, bắn một phát súng thì há không phải là các người cố ý kích động chúng tôi đấy sao? Nếu sau này xảy ra một việc không tốt lớn hoặc nhỏ, thì rõ ràng là không phải tự chúng tôi gây ra rồi. Chúng tôi lại sợ quan trên của các người sẽ đem cái tội lớn là “gây càn ra thù hằn nơi biên giới” mà đun đẩy lên mình các người thì các người chịu đựng thế nào?…

Trăm việc lấy hòa làm quý, thử đem lời nói của tôi mà ngẫm nghĩ kỹ xem! Nếu thu xếp xong được sớm, rút về không lưu lại một giờ nào thì tôi cũng không cần ở lâu để cai quản việc không cần thiết. Nếu để chậm đến cuối mùa thu thì lam chướng ngày càng nặng, mưa lụt ngày càng nhiều, lính của tôi đã quen thuộc khí hậu còn cảm thấy khó nhọc, huống chi lính các người quen ở đất Bắc, nay ở lâu trong vùng lam chướng sợ không chịu nổi.

Vả chăng các người là bực đại trí tuệ, đại kiến thức, mong hãy soi xét lời nói phải, sắp xếp hoàn thành việc rất tốt này cho cả hai bên, há không phải tay không mà tạo thành được tòa tháp bảy tầng, không những con cháu được hưởng công đức ấy vô cùng, mà tự mình trước đã hưởng điều rất vui sướng đấy.

Hơn nữa mảnh đất sỏi đá này có hay không thì có quan hệ gì? Việc đi lần này chắc chỉ vì lầm nghe bọn tiểu nhân nói những điều khách khí, nay thì điều khách khí đã thoải mái rồi, còn đòi gì nữa? Chúng tôi đi chuyến này vốn là bất đắc dĩ, mong các người tỏ lòng tốt. Nếu buổi sớm các người rút quân thì buổi chiều chúng tôi cũng cáo từ đấy, chúng tôi há có thích gì cái việc không vui sướng này đâu! Chúng tôi đã thành tâm khuyên nhủ, các người nên nhớ cho kỹ. Vậy đưa tờ trát này để trả lời các người biết”.

Theo quan chế thời Nguyễn, lãnh binh chỉ là võ tướng chỉ huy quân đội ở địa phương, nhưng việc làm thật đáng khâm phục. Mặc dù lời lẽ và cách hành văn trong bức thư của ông rất mềm mỏng nhưng lại khôn khéo, cương quyết, dù ở thế yếu trước một kẻ mạnh hơn mà vẫn thể hiện khí phách hiên ngang, khẳng định quyền tự quyết thiêng liêng, ý chí tự cường, sẵn sàng đánh trả bất cứ thế lực nào xâm phạm đến lãnh thổ và nền độc lập của đất nước.

Mưu trí cha ông đánh bại âm mưu xâm lược của địch (kỳ 2)

Bài đăng trên Baodatviet.vn

(ĐVO) Sử dụng chiến lược từng bước lui binh, bảo toàn lực lượng, hay cách đánh bất ngờ, thần tốc..., trong binh pháp của "thống soái", tùy theo bối cảnh chiến sự, để giành thắng lợi trước kẻ thù... đều là chiến lược "độc" bù đắp sự chênh lệch về số lượng giữa ta và địch.


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Lịch sử nước ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”.


Trần Hưng Đạo: Chế ngự sức mạnh của địch và phản công khi chúng suy yếu

Trước chiến tranh chớp nhoáng đánh Đại Việt của đại quân Nguyên - Mông, quân ta dưới sự chỉ huy thao lược tài tình của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cùng tướng lĩnh kiệt xuất của nhà Trần, sử dụng chiến lược từng bước lui binh, bảo toàn lực lượng, bỏ ngỏ kinh thành cho giặc dữ, từ đó củng cố và tăng cường thực lực, phản công, đánh bại hoàn toàn 3 lần xâm lược của kẻ thù.


Trận Đông Bộ Đầu (1258): đánh tan đạo quân xâm lược Mông Cổ tại bến Đông Bộ Đầu (gần cầu Long Biên, Hà Nội ngày nay), kết thúc khánh chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất. Ảnh minh họa
Tài ba của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn gồm cả văn lẫn võ. Văn ở tầm "đại học vấn, đại uyên bác" với Hịch tướng sĩ: "Ta ngày thường quên ăn, đêm thường quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìạ.." - làm sáng bừng lên nghĩa khí Đại Việt, cuốn thiêu đi cạn hẹp lòng người, truyền khí phách tới ba quân tướng sĩ...

Võ ở tầm nhà chiến lược, quân sự phương Đông, hơn thế, nhà lập thuyết quân sự và bày binh Đại Việt. Lý thuyết và nghệ thuật dùng binh thuở ấy được Trần Hưng Đạo hội nhập và sáng tạo bộ chủ gia binh pháp, gọi là Binh thư yếu lược, từ đó soạn ra Vạn kiếp tông bí truyền thư, làm nền tảng cấu trúc quân đội thời Trần và luyện quân, tập tướng.

Lần thứ nhất với chiến thắng Đông Bộ Đầu vào đầu thế kỷ 13. Nắm bắt được mưu đồ xâm lược của 30 vạn quân Nguyên ào ạt tràn sang xâm lược nước ta, trước thế mạnh của giặc Nguyên, Trần Hưng Đạo không dùng đại quân chủ lực mà dùng quân địa phương, dân binh đánh chặn tiêu hao sinh lực, còn chủ lực “ẩn mình” cơ động về Vĩnh Phú, rồi sang Hưng Yên, để chờ thời cơ ra đòn phản công quân địch; đồng thời, thực hiện kế sách “thanh dã” – vườn không nhà trống ở thành Thăng Long. Đến giữa tháng 1/1258, quân Nguyên đã tràn vào Thăng Long bỏ trống và biến thành chiến địa. Sau 10 ngày chiếm kinh thành với vườn trống, nhà không, không tìm ra một cân lương thực nào trong thành Thăng Long, lại bị quân địa phương, dân binh quấy rối… Quân giặc lương thảo cạn dần, sức lực, sĩ khí quân Nguyên sa sút,… lâm vào thế “tiến thoái lưỡng nan”. Trần Hưng Đạo quyết định đêm 24/1/1258 dùng đại quân chủ lực mở cuộc tấn công từ Đông Bộ Đầu (phía Đông hữu ngạn sông Hồng) làm quân Nguyên bị bất ngờ, bỏ chạy tán loạn, hơn 60% binh lực bị tiêu diệt tại trận, tàn quân còn lại tháo chạy về nước.

Lần thứ hai với chiến thắng Chương Dương - Giang Khẩu. Cuối năm 1284, Thoát Hoan chỉ huy 60 vạn quân từ hướng Bắc tràn sang nước ta. Trần Hưng Đạo sau khi đã soạn thảo hai bộ binh thư yếu lược để luyện quân, động viên ba quân bằng “Hịch tướng sĩ” và vận dụng binh pháp “Kiên thủ chờ suy” bảo tồn lực lượng chủ lực chuyển vào ẩn quân ở Thiên Trường, Tam Điệp, Thanh Hóa, đồng thời tăng cường địa phương quân ra sức chặn đánh ngăn chặn phía trước, triệt hậu cần phía sau để cầm chân giặc.

Tháng 5/1285, Trần Hưng Đạo cho quân tổng phản công từ hai hướng Chương Dương và Giang Khẩu và trực tiếp chỉ huy đánh thắng trận đầu ở A Lỗ; liên tiếp thắng lớn trong các trận: Hàm Tử, Chương Dương và Vạn Kiếp. Giặc Nguyên không kịp trở tay. Quân ta đại thắng. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để quân lính khiêng tháo chạy về nước.


Chỉ sau 5 tháng xâm lược nước ta lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng, quân Nguyên lại buộc phải rút chạy và vĩnh viễn từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt. Ảnh minh họa Ba năm sau, vào tháng 1/1288, quân Nguyên Mông tiếp tục tràn vào xâm lược nước ta. Trong lần tấn công lần thứ 3 này, Trần Hưng Đạo vẫn áp dụng kế sách bảo toàn quân chủ lực, nghi binh thu hút địch, dùng quân địa phương nhiều hơn đánh địch khắp nơi. Ngày 22/2/1288, quân Thoát Hoan tiến vào Thăng Long lại không một bóng người, bị dân binh ta bao vây và liên tiếp bị đánh khi đi cướp lương thực; đồng thời cắt đứt nguồn tiếp tế, khiến địch lại lâm vào thế khốn khó, rối loạn. Do vậy, chỉ sau 5 tháng xâm lược nước ta lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng, quân Nguyên lại buộc phải rút chạy và vĩnh viễn từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt.

Có thể nói, những trang sử chống ngoại xâm vàng son nhất của Việt Nam đều do công của Trần Hưng Đạo lập ra. Trong khi đội quân bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư Hãn làm mưa làm gió gần như khắp thế giới thì Việt Nam là một trong ba nước hiếm hoi cùng với Ấn Độ và Indonesia ngăn chặn được cơn hồng thủy Mông Cổ.

Quang Trung: Đánh thần tốc

Điểm nổi bật và cũng là ưu thế tiến hành quân sự của Quang Trung - Nguyễn Huệ là nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo và nắm chắc thời cơ. Trong suốt chặng đường chiến đấu, Nguyễn Huệ không chỉ chứng tỏ là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc, mà còn là một nhà cầm quân tài ba. Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện được.

Với trận Rạch Gầm-Xoài Mút (1785) - trận quyết chiến chiến lược của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, diệt quân Xiêm (Thái Lan) trên sông Tiền Giang, đoạn từ Rạch Gầm đến Xoài Mút - ngoài lợi dụng thủy triều, ông còn áp dụng nghệ thuật nghi binh khá linh hoạt. Các tướng Xiêm biết quân Tây Sơn ít hơn, thế nào Nguyễn Huệ cũng dùng chiến thuật nghi binh, nhưng khi trận đánh xảy ra, chúng lại hoàn toàn bất ngờ.


Với trận Rạch Gầm-Xoài Mút (1785), ngoài lợi dụng thủy triều, Nguyễn Huệ còn áp dụng nghệ thuật nghi binh khá linh hoạt. Ảnh minh họa Quân Tây Sơn không chỉ mai phục sẵn ở hai bên bờ sông, mà trong đêm trăng mờ mờ, quân của Võ Văn Dũng vừa đánh vừa lui. Một bộ phận quân Tây Sơn hai bên bờ cùng hợp lực với Dũng chặn giặc. Quân Xiêm nhận định: toàn bộ quân Tây Sơn đã lộ diện, vì vậy, không còn gì chần chờ nữa, tướng Xiêm đốc thúc ba quân đuổi theo thủy quân Võ Văn Dũng. Thuyền giặc cứ theo ánh sáng đèn của thủy quân Tây Sơn mà đuổi, chúng không biết rằng trên đường rút lui để dụ địch, thủy quân của Võ Văn Dũng đã dần dần tắt đèn tấp sang hai bên bờ chui vào các ngách sông. Quân Xiêm đuổi tới nơi thì thấy chỉ có mấy chiếc, biết là đã trúng kế Tây Sơn. Khi quân Xiêm lọt vào trận địa bày sẵn, Nguyễn Huệ đốc thúc thủy quân từ các nhánh sông đổ ra đánh. Đồng thời, súng đại bác trên cù lao Thới và hai bên bờ sông nã liên hồi vào thuyền giặc. Tướng Xiêm Chiêu Sương hoảng hốt cho dừng thuyền lại, nhưng bị thủy quân Tây Sơn từ các nhánh sông nhỏ đổ ra vây chặt, gồm: phía trước, phía sau, hai bên và ngay cả trên đầu, dẫn đến bị rối loạn hàng ngũ, quân sĩ lớp nhảy xuống nước bị chết chìm, lớp bị giáo đâm, gươm chém... thất bại nặng nề. Còn đạo quân bộ cũng bị quân Tây Sơn phục đánh tan, tướng Xiêm là Lục Côn bị Bùi Thị Xuân chém rơi đầu. Trong trận đánh này, với lực lượng khoảng ba vạn quân thủy bộ, Nguyễn Huệ đã tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm và 300 thuyền chiến.

Trong cuộc tiến công từ Phú Xuân ra Thăng Long tiêu diệt 29 vạn quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ - khi đó đã là vua Quang Trung - chọn cách tấn công vào Thăng Long từ phía Nam. Đó là khu vực quân Thanh bố phòng cực kỳ kỹ lưỡng. Nhưng đó cũng là hướng quân Thanh chủ quan nhất, vì chúng đinh ninh rằng ít có khả năng bị tấn công, thế nên Nguyễn Huệ đã quyết định ra đòn phủ đầu. Và đợt phản kích quân Thanh theo hướng này diễn ra rất chóng vánh: chỉ trong vòng 6 ngày, kể từ khi xuất binh (Đêm 30 tết) đến khi tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh trong trận Đống Đa (ngày mồng 5 tết).

Ở đây phải nói, chính yếu tố bí mật, địch quân không nắm được lực lượng của ta lại thêm thói khinh thường, đến khi ta bất ngờ tấn công thì không kịp chống đỡ, đã làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử của vua Quang Trung.

Như vậy, cách đánh bất ngờ, thần tốc là tâm điểm trong binh pháp của Quang Trung - Nguyễn Huệ. Đó là cách để bù đắp sự chênh lệch trước những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần...

Mưu trí cha ông đánh bại âm mưu xâm lược của địch (kỳ 1)

Bài đăng trên Baodatviet.vn

(ĐVO) Do ở vị trí chiến lược trọng yếu và có tài nguyên phong phú nên từ xưa đến nay, nước ta luôn trở thành mục tiêu xâm lược của nhiều nước lớn. Tuy nhiên, với sự mưu trí, đoàn kết, sáng tạo, kiên định và lòng dũng cảm..., cha ông đã đánh bại mọi âm mưu thôn tính của địch, bảo toàn lãnh thổ và giữ vững chủ quyền đất nước.

Cùng Đất Việt điểm lại tư duy chiến lược đánh giặc độc đáo của cha ông, như: mưu giỏi mà đánh cũng giỏi (Ngô Quyền), tiên phát chế nhân (Lý Thường Kiệt), chế ngự sức mạnh của địch và phản công khi chúng suy yếu (Trần Hưng Đạo), đánh lâu dài (Lê Lợi), đánh thần tốc (Quang Trung)...


Ngô Quyền: Mưu giỏi mà đánh cũng giỏi

Phán đoán đúng con đường tiến quân của địch, Ngô Quyền đã chủ trương bố trí một trận địa cọc ở cửa sông Bạch Đằng, rồi nhân khi nước triều lên, nhử thuyền địch tiến vào bên trong hàng cọc và tập trung lực lượng tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh, gọn, triệt để. Để ngợi ca ông và chiến thắng Bạch Đằng, nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".


Với chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền được ngợi ca "mưu giỏi mà đánh cũng giỏi". Ảnh minh họa
Sông Bạch Đằng là một nhánh sông dài hơn 20 km, từ Do Nghi đến Phả Lễ giữa Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thuỷ Nguyên (Hải Phòng), nơi đã ghi dấu chiến công của Ngô Quyền chống giặc Nam Hán; chiến công của Lê Hoàn chống giặc Tống; chiến công của Trần Hưng Đạo chống giặc Nguyên Mông. Trong đó, trận thắng giặc Nam Hán vào năm 938 do Ngô Quyền chỉ huy là mốc son mở ra nền độc lập tự chủ của dân tộc ta.

Theo sử sách, năm 920, Ngô Quyền đi theo Dương Đình Nghệ, một tướng của họ Khúc ở đất Ái Châu (Thanh Hóa). Dương Đình Nghệ là anh hùng dân tộc từng có công đánh đuổi giặc Nam Hán, chiếm được thành Đại La năm 931, thúc đẩy bước tiến của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, tự xưng Tiết độ sứ, giao cho Ngô Quyền cai quản Ái Châu . Yêu mến tài năng và nhiệt huyết cứu đời, giúp nước của Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ đã gả con gái cho ông.

Trong 7 năm (931-938), quản lĩnh đất Ái Châu, Ngô Quyền trổ tài lực, đem lại yên vui cho dân trong hạt. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, một thuộc tướng và là hào trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn đã gây nên một làn sóng bất bình, căm giận sâu sắc trong mọi tầng lớp nhân dân. Ngô Quyền trở thành ngọn cờ qui tụ mọi lực lượng yêu nước.

Có thể nói, vào thời điểm đó, nền độc lập của dân tộc ta vừa mới giành được sau đêm trường Bắc thuộc lại bị đe dọa. Kiều Công Tiễn hoảng sợ trước sự cǎm phẫn của nhân dân, đã cho người sang cầu cứu vua Nam Hán. Nhân cơ hội đó, Nam Hán đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Vua Nam Hán là Lưu Cung đã cử con trai là thái tử Hoằng Thao thống lĩnh quân thuỷ vượt biển tiến vào nước ta. Bản thân Lưu Cung cũng tự cầm quân đóng ở Hải Môn (Quảng Đông) để sẵn sàng tiếp ứng.

Cuối năm 938, Ngô Quyền (898-944), vị tướng giỏi đồng thời là con rể của Dương Đình Nghệ đã đem binh từ châu ái (Thanh Hoá) ra diệt Kiều Công Tiễn, trừ mối hoạ bên trong. Sau đó, ông huy động nhân dân cả nước khẩn trương bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán. Nắm vững tình hình cũng như đường tiến quân của địch, Ngô Quyền bàn với các tướng sĩ rằng: "Hoằng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được! Song chúng có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua cũng chưa biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu và bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự không kế gì hay hơn kế ấy cả". Các tướng đều phục kế sách ấy là chắc thắng.

Ngay sau đó, Ngô Quyền đã huy động quân dân đẵn gỗ, đẽo cọc vát nhọn, bịt sắt cắm đầy lòng sông Bạch Đằng ở những chỗ hiểm yếu gần cửa biển tạo thành một trận địa ngầm, hai bên bờ có quân mai phục. Đó là một thế trận hết sức chủ động và lợi hại, thể hiện một quyết tâm đánh thắng quân giặc của chủ tướng Ngô Quyền và quân dân ta.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hoằng Thao thống lĩnh thuỷ binh hùng hổ kéo vào cửa sông Bạch Đằng. Lúc đó nước triều đang lên ngập hết bãi cọc, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, dụ quân giặc từ vịnh Hạ Long vào sông Bạch Đằng, rồi vờ thua chạy. Tên tướng trẻ kiêu ngạo Hoằng Thao mắc mưu, thúc quân chèo thuyền hǎm hở đuổi theo, vượt qua trận địa cọc ngầm của ta. Quân ta cầm cự với giặc. Đợi khi nước thuỷ triều rút xuống, Ngô Quyền hạ lệnh cho toàn quân đánh quật trở lại. Thuỷ quân giặc hốt hoảng quay đầu chạy. Ra đến gần cửa biển, thuyền địch đâm phải cọc nhọn, bị vỡ và bị đắm rất nhiều. Quân giặc phần bị giết, phần chết đuối, phần còn lại phải đầu hàng hoặc bị quân ta bắt sống. Toàn bộ đạo quân thuỷ xâm lược của Nam Hán, kể cả Hoằng Thao đã vĩnh viễn bị nhấn chìm xuống dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Vua Nam Hán đang điều quân sang tiếp viện cho con, nhưng nửa đường nghe tin Hoằng Thao chết trận, quân lính bị tiêu diệt gần hết, hắn kinh hoàng, khủng khiếp đành "thương khóc thu nhặt quân còn sót lại mà rút lui".

Như vậy, trước mưu đồ xâm lược trở lại của phong kiến phương Bắc, ngọn cờ cứu nước của Ngô Quyền trở thành ngọn cờ đoàn kết của cả dân tộc. Hai tiếng Bạch Đằng mãi đi vào lịch sử. Trong tâm thức nghìn năm của người Việt Nam, Bạch Đằng đã trở thành điểm hội tụ của sức sống dân tộc, đúng như lời ngợi ca của Phạm Sư Mạnh: Vũ trụ kỳ quan Dương Cốc nhật, Giang san vương khí Bạch Đằng thâu (Tạm dịch: Kỳ quan của vũ trụ là mặt trời lên tại hang Dương Cốc, Khí thiêng của núi sông đọng lại ở chốn Bạch Đằng).

Lý Thường Kiệt: Tiên phát chế nhân

Thắng lợi huy hoàng của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống (1075-1077) là một minh chứng hùng hồn về sự phát triển vượt bậc của dân tộc Việt sau một thế kỷ giành độc lập: quốc gia Đại Việt đã có đủ sức mạnh để chống lại một đế quốc lớn mạnh. Và gắn liền với chiến công ấy là tên tuổi vị chủ tướng tài ba Lý Thường Kiệt - nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị kiệt xuất mang một nhân cách lớn.


Trận Như Nguyệt do Lý Thường Kiệt chỉ huy, kết thúc cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ 2. Ảnh minh họa

Năm 1072, Lý Thánh Tông từ trần. Lý Nhân Tông lên nối ngôi khi mới có 7 tuổi. Lý Thường Kiệt được giữ chức Đôn quốc thái úy, Đại tướng quân, Đại tư đồ, tước hiệu Thượng phụ công.

Vào thời gian đó, chính quyền phương Bắc vẫn luôn nhòm ngó. Chúng xem đây là một cơ hội tốt để tiến hành ráo riết việc chuẩn bị xâm lược nước ta. Tại ba châu Ung, Khâm, Liêm, chúng xây dựng những căn cứ quân sự và hậu cứ to lớn để làm nơi xuất phát trực tiếp cho các đạo quân xâm lược. Nhớ lại Chiến dịch Ung Châu, trước âm mưu và hành động rõ ràng công khai của địch, Lý Thường Kiệt cho rằng: "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc". Được triều đình tán thành, ông huy động 10 vạn quân tiến hành một cuộc tập kích đánh thẳng vào các căn cứ chuẩn bị xâm lược của kẻ thù ngay trên đất Tống.

Quân Việt bắt đầu tiến công vào đất Tống từ ngày 27 tháng 10 năm 1075. Thoạt tiên, quân Việt phá hủy một loạt các đồn trại biên giới, rồi lần lượt đổ bộ lên cảng và đánh chiếm các thành Khâm, Liêm. Sau đó, đại quân tiếp tục tiến sâu vào đất địch. Ngày 18 tháng 1 năm 1076 áp sát thành Ung. Đây là căn cứ quan trọng nhất trong những căn cứ địch dùng cho cuộc viễn chinh xâm lược vào Đại Việt. Sau 42 ngày vây hãm và tấn công quyết liệt, ta hạ được thành, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên địch.

Theo chủ trương đã định, quân ta được lệnh san bằng các thành lũy lớn nhỏ, tiêu huy các kho tàng lương thực, vũ khí, giáng đòn sấm sét làm tổn thất nghiêm trọng các cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh của địch, làm nhụt nhuệ của bọn cầm quyền phương Bắc trong việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Sau khi đã đạt mục tiêu của cuộc đánh sang đất Tống, Lý Thường Kiệt quyết định rút nhanh quân về nước. Cuộc rút quân rất đúng lúc, vừa bảo toàn được lực lượng, vừa phá được kế hiểm của giặc: chúng định điều quân lẻn sang đánh úp Đại Việt nhân lúc đại quân còn đang ở bên nước chúng.

Ghi nhận chiến công kỳ diệu, có một không hai trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt, trong Việt sử tiêu án, nhà viết sử Ngô Thì Sĩ đã ca ngợi Lý Thương Kiệt: "Bày trận đường đường, kéo cờ chính chính, mười vạn thẳng sâu vào đất khách, phá quân ba châu như chẻ trúc, lúc tới còn không ai dám địch, lúc rút quân còn không ai dám đuổi, dụng binh như thế, chẳng phải nước ta chưa từng có bao giờ".

Bị thua đau, nhưng nhà Tống vẫn rất ngoan cố. Lý Thường Kiệt biết chắc thế nào chúng cũng sẽ kéo quân sang phục thù và tiếp tục thực hiện mục tiêu xâm lược mà chúng chưa bao giờ chịu từ bỏ. Do vậy, ông phái người vào đất Tống để theo dõi cụ thể mọi động thái; đồng thời tập trung xây dựng phòng tuyến chính của quân ta dựa vào bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu), có rào giậu nhiều tầng, chạy dài trên 200 dặm từ chân núi Tam Đảo đến sông Lục Đầu. Dưới sông có thủy quân, trên thành có quân đóng và tuần tiễu. Với phòng tuyến này, quân ta nắm chắc khả năng chặn địch, bảo vệ an toàn kinh thành Thăng Long và cả một vùng trung châu rộng lớn và trù phú của đất nước.

Cuối năm 1076, đại quân Tống chia làm nhiều cách vượt biên giới tiên ào ạt vào Đại Việt. Sau một tháng phải luôn luôn đối phó với những cuộc chống trả quyết liệt của nhân dân Đại Việt trên vùng biên giới và thượng du. Cuối cùng, ngày 18 tháng 1 năm 1077, đại quân Tống cũng tiến được tới bờ bắc sông Cầu. Nhưng đến đây, chúng đã bị chặn đứng lại. Thế nhưng, lần tiếp, chúng tập trung binh lực, đột phá trận tuyến quân Việt ở bến đò Như Nguyệt, chọc thủng được một đoạn phòng tuyến, tiến về Thăng Long... Song, dưới sự chỉ huy linh hoạt sắc sảo của Lý Thưởng Kiệt, hết lần này đến lần khác, địch đều bị tiêu diệt, tháo chạy hoặc đầu hàng.

Tuy nhiên, phải nói rằng, trong trận chiến Như Nguyệt, chiến lược phản công hiệu quả nhất của Lý Thương Kiệt là sức mạnh kỳ lạ của bài thơ Nam quốc sơn hà - làm tăng nhuệ khí và thêm sức chiến đấu cho quân ta, đồng thời làm nao núng tinh thần quân địch; giúp đại quân ta vượt sông bất ngờ đánh úp vào doanh trại chính của địch. Theo Việt sử lược, quân Tống đại bại, bị tiêu diệt đến năm, sáu phần mười.

Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

John McCain: Mỹ cần giúp ASEAN tăng sức mạnh hải quân

Bài đăng trên VietnamNet

Vừa trở về từ Đông Nam Á, chiều 20/6 (giờ địa phương), Thượng nghị sĩ John McCain đã có bài phát biểu tại hội nghị “An ninh hàng hải trên Biển Đông” tại Washington, Mỹ, nhấn mạnh Mỹ cần giúp Đông Nam Á tăng cường sức mạnh hải quân trước một Trung Quốc hành xử hiếu chiến, yêu sách tham lam, thiếu căn cứ trên Biển Đông.
Hội nghị do Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS tổ chức trong hai ngày 20 – 21/6 với sự tham gia của các học giả và giới làm chính sách nhiều nước, cả Mỹ, Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Ấn Độ…

“Hành xử hiếu chiến, yêu sách tham lam”
Trong bài phát biểu cuối ngày thảo luận đầu tiên 20/6, Thượng nghị sĩ John McCain nói với kinh nghiệm gần như cả cuộc đời làm việc về vấn đề an ninh châu Á – Thái Bình Dương, ông chia sẻ mối lo ngại về khả năng Biển Đông trở thành một điểm nóng.
Vài năm trở lại đây, Biển Đông đã có sự leo thang căng thẳng. Tình hình đòi hỏi phải “nói chuyện thẳng thắn” giữa các bên.
Vị thượng nghị sĩ Mỹ chỉ rõ: “Nguyên do chính làm căng thẳng gia tăng và khiến cho việc đạt được một giải pháp hòa bình ở Biển Đông bị bế tắc chính là “hành xử mang tính hiếu chiến” và “yêu sách tham lam, thiếu căn cứ" của Trung Quốcở Biển Đông”.

TNS McCain: Mỹ cần giúp ASEAN "xây dựng khả năng phòng thủ và phát hiện trên biển".

Theo ông John McCain, tình hình Biển Đông sẽ mang tính quyết định trong việc định dạng sự phát triển khu vực CA-TBD trong thế kỉ này. Và Mỹ cần can dự tích cực.
Ông cũng nhắc lại thực tế, Trung Quốc có những hoạt động ở Biển Đông dựa trên các “quyền tự phong” ngay cả ở vùng 200 hải lý tính từ đường cơ sở của các quốc gia khác, như các sự kiện mới đây liên quan đến Việt Nam và Philippines.
Cái mà Trung Quốc gọi là bản đồ đường yêu sách 9 đoạn hình chữ U bao gồm tất cả các đảo trên Biển Đông, và vùng nước bao quanh 200 hải lý với các đảo đều gọi là vùng lãnh hải cũng không dựa trên luật pháp quốc tế, TNS Mỹ nói.
Cách giải thích luật quốc tế của Trung Quốc làm cản trở tự do hàng hải, tạo nên cuộc chiến pháp lý ở Biển Đông.

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

Ông Vũ Khoan và những chuyện ngoại giao cười ra nước mắt

Tác giả: NHÀ VĂN THĂNG SẮC

Trên thực tế đã từng xẩy ra sự căng thẳng chỉ vì nghi thức lễ tân không khớp nhau do mỗi nước có luật lệ và tình huống khác nhau, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan chia sẻ.

>>Ông Vũ Khoan nói về nghề thông ngôn

Trong cuộc trò chuyện tiếp theo giữa nhà văn Thăng Sắc và nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, nhà ngoại giao kỳ cựu này đã chia sẻ nhiều điều thú vị về hậu trường ngoại giao.

Sự "phá cách" của Hồ Chí Minh

Thưa ông, có ý kiến cho rằng lễ tân kỹ thuật là cần thiết nhưng nó mới chỉ là lễ tân hình thức, chưa có hồn. Theo ông, cái hồn của lễ tân ngoại giao là gì?

Ông Vũ Khoan:- Ngoại giao không chỉ là lễ tân nhưng ngoại giao không thể thiếu lễ tân. Nói nôm na thì lễ tân ngoại giao là như những nghi lễ đón tiếp khách nước ngoài; tổ chức các chuyến thăm nước ngoài của lãnh đạo; bảo đảm các nghi thức tiến hành các cuộc tiếp xúc, hội đàm, ký kết, chiêu đãi, mít-tinh, giao lưu, tham quan và cả ma chay nữa...

Nói thì ngắn gọn vậy thôi chứ đằng sau chúng là hàng trăm, hàng nghìn đầu việc cụ thể, tỷ mỉ khác nhau.

Trên thế giới người ta đã viết rất nhiều sách về các nghi lễ ngoại giao; nó trở thành một môn học chính thống trong các trường, lớp ngoại giao. Mình không được đào tạo đến nơi đến chốn về công tác ngoại giao, kể cả công tác lễ tân nên nhiều việc biết được nhờ "học lỏm" qua thực tế và qua sự quan sát xem thiên hạ làm thế nào.

Thực ra lễ tân ngoại giao hiện đại thường tuân theo các nghi thức của phương Tây, bắt đầu từ các nghi lễ cung đình rồi dần rà được "dân chủ hóa", đơn giản hóa và địa phương hóa cho phù hợp với truyền thống của mỗi quốc gia.

Ở nước ta, lễ tân ngoại giao cũng tuân theo các quy định, thông lệ quốc tế nhưng mang nhiều sắc thái Việt Nam. Người để lại dấu ấn sâu đậm nhất về phương diện này chính là Bác Hồ. Nói một cách đơn giản nhất, cái hồn của lễ tân ngoại giao Việt Nam hay lễ tân ngoại giao Hồ Chí Minh chính là "tính nhân văn", " tính con người" (human being); loại bỏ sự quan cách, bệnh hình thức phù phiếm.


Ta đã từng được nghe nhiều về chuyện Bác Hồ mang theo quả táo từ quốc yến của Chính phủ Pháp khoản đãi để cho cháu bé nghèo ở cửa; tự Người vác trên vai tấm thảm do Tổng thống Ấn Độ tặng trên lễ đài cuộc mít tinh với hàng vạn người tham gia để chào mừng Người...

Riêng tôi đã được chứng kiến nhiều cử chỉ "phá cách", đầy tính người của Bác trong các hoạt động ngoại giao. Tôi xin kể vài chuyện mình được mục sở thị:

Mỗi khi sang thăm Liên Xô, Bác thường được bạn bố trí ở biệt thự trên đồi Lênin hoặc ở ngoại ô Moscow. Tất nhiên sự phục vụ ở những nơi đó vô cùng chu đáo và trang trọng. Thế mà Bác lại không cho các cô phục vụ bưng thức ăn cho từng người mà yêu cầu để thức ăn trên nóc tủ buyt-phê, ai muốn ăn gì tự ra lấy, ăn xong tự dọn bát đĩa bẩn vào bếp. Tôi thưa với Bác rằng, bạn rất khó xử vì không bảo đảm nghi thức lễ tân, vả lại tới ăn còn có cả các nhà lãnh đạo Liên Xô. Bác nói, cứ làm như vậy, chắc các đồng chí ấy cũng thông cảm và làm theo. Quả nhiên các nhà lãnh đạo Liên Xô đến ăn cơm với Bác rất vui vẻ làm theo.

Một lần Đoàn đại biểu Quốc hội Bulgary sang thăm Việt Nam. Dẫn đầu đoàn là ông Vưn-cô Tréc-van-cốp, nguyên là Tổng Bí thư BCH TW Đảng sau khi Đ. Đi-mi-trốp từ trần. Sau đận "chống sùng bái cá nhân" do Khơ-rút-sôp phát động, ông Tréc-van-cốp bị thất sủng và đương nhiên tâm tư không được thoải mái lắm. Hơn nữa khi đoàn đi thăm Hải Phòng lại xẩy ra một vụ việc động trời: khi đoàn xe của đoàn dừng lại ở cầu Phú Lương hay Lai Vu gì đó để chờ tầu hỏa đi qua, anh em bảo vệ ta đã lên hết đường tầu để..."giải quyết vấn đề". Tôi cùng ngồi xe với ông bà Tréc-van-cốp (bà đó là em gái Đi-mi-trốp) cùng ông Tôn Quang Phiệt, Phó Chủ tịch Quốc hội. Vừa mở cửa xe ra, thấy cảnh ấy, mặt đỏ như gấc, ông đóng sầm cửa lại và từ đó lầm lì không nói gì nữa. Về Hà Nội tôi báo cáo Bác và các đồng chí lãnh đạo; Bác đã chỉ thị thi hành kỷ luật và thay toàn bộ lực lượng bảo vệ Đoàn.

Sáng hôm sau, sáng tinh mơ tôi trực ở Nhà khách 12 Ngô Quyền được tin Bác xuống. Bác bảo tôi thông báo cho ông bà Tréc-van-côp biết. Khi tôi gõ cửa phòng ông ta thò cổ ra, mặt hầm hầm. Tôi vội thông báo Bác Hồ tới thăm và đúng lúc ấy Bác từ đầu hành lang lững thững tiến lại. Thế là ông bà vội ra đón Bác trong một tư thế vô tiền khoáng hậu về lễ tân ngoại giao: ông ấy vẫn mình trần, chỉ quấn chiếc khăn tắm, còn bà Ma-ri-a Đi-mi-trô-va mặc váy ngủ!

Bác bảo tôi lôi mấy chiếc ghế mây ra sân thượng ngồi cho mát. Yên vị ông Tréc-van-cốp băn khoăn nói: đáng ra tôi phải đến chào đồng chí trước, theo chương trình là chiều nay, sao đồng chí lại đến bất ngờ thế này, vợ chồng tôi chưa kịp chuẩn bị gì cả. Đáp lại Bác nói: ở Việt Nam có câu: "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư", đồng chí đã từng giảng bài ở Trường Đại học Cộng sản Mat-xcơ-va, còn tôi đã từng đến nghe giảng ở đó, như vậy đồng chí là thầy của tôi, thầy đến nhà, trò phải chào thầy trước. Vả lại em gái nuôi của tôi là cô Ma-ri-a đến thì tôi phải gặp chứ. (Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác lúng túng khi phải dịch câu châm ngôn "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" Bác dùng). Sau đó ba người hàn huyên thân tình với nhau; mọi sự bực tức của ông bà đã tiêu tan hẳn.

Cái cử chỉ "phá cách lễ tân" có một không hai đó của Bác vừa thể hiện sự tinh tế đầy tính văn hóa Việt Nam rất con người, trọng tình, trọng nghĩa, không câu nệ lễ nghi, vừa là cách khéo léo trang trải mọi ưu phiền của khách.

- Có lẽ chỉ có Bác Hồ mới có thể "phá cách" như thế ?

Những chuyện "phá cách" như vậy của Bác Hồ thì còn nhiều, khi nào có dịp sẽ chia sẻ tiếp nhé!

Tôi được nghe nhiều vị khách nước ngoài nhận xét rằng, sang Việt Nam luôn cảm thấy thoải mái hơn nhiều so với các nước khác. Trong nhiều nhân tố tạo nên tâm tư đó, theo tôi, có một nhân tố nói ở trên là cách đối xử theo tình người, sự thoải mái, không quá câu nệ lễ nghi.

Tôi sang thăm Trung Quốc rất nhiều lần, trên các cương vị rất khác nhau và nhận thấy lễ tân Trung Quốc chu đáo đến tột cùng nhưng rất gò bó: ở Nhà khách Chính phủ là khu Điếu Ngư Đài thì đôi tay của anh không có việc gì để làm cả: ra cửa có người mở cửa, ra xe có người mở cửa xe, khăn ăn có người trải trên đùi, đi cắt tóc ngay nhà bên cạnh có người dẫn đi dẫn về, bơi thuyền có người đạp xe xung quanh hồ để dè chừng, bơi sông có lưới ở dưới...

Còn ở Việt Nam thì các vị khách, kể cả Hoàng gia, đều được đối xử thân tình, thoải mái, không bị chăm sóc quá mức, và điều này rất hợp với bản tính con người muốn được tự do, thoải mái.Theo dòng "lễ tân Hồ Chí Minh" đó, lễ tân của ta thường thể hiện tinh thần "gần dân".


Ngay trong những năm chiến tranh mỗi khi đoàn nước ngoài tới thăm đều tổ chức cho bạn đi thăm các nhà máy, hầm mỏ, trường học, ruộng đồng, tiếp xúc với những người dân bình thường. Nhiều nước khác cũng làm như vậy thôi song ở ta tôi cứ thấy đoàn với dân không quá xa cách.

Tôi nhớ hồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.Cô-xư-ghin lần đầu tiên sang thăm ta , Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cùng ông đi bơi thuyền ở Hồ Tây, đi thăm HTX Yên sở, ở đó Chủ nhiệm Hợp tác xã đã biếu ông ấy con cá quả rất to để "bồi dưỡng"! (tôi đã phải cố vận dụng vốn tiếng Nga của mình để lột tả nghĩa của từ "bồi dưỡng" rất dân dã đó). Về sau này, khi đã giữ cương vị lãnh đạo tôi luôn đề nghị lễ tân phát huy tính chất ấy.

Tôi xin kể ra đây ba sự kiện.

Khi ta chủ trì Hội nghị cấp cao A-Âu (ASEM), sau Lễ khai mạc, các Trưởng đoàn sẽ phải về Trung tâm Hội nghị quốc tế ở 13 Lê Hồng Phong họp. Lúc đầu lễ tân dự kiến bố trí xe bus chở khách đi nhưng việc này rất lích kích nên tôi đã quyết định tổ chức đi bộ từ Hội trường Ba đình sang, dọc đường bố trí các cháu nữ học sinh mặc áo dài, cầm cờ hoa vẫy chào. Quả nhiên tiết mục ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với cả hai phía: các đoàn và dân ta. Cũng nhân việc này mà cái vườn hoa nhỏ ở Bà Huyện Thanh quan trước đó có lều quán, nhếch nhác đã được dọn sạch sẽ cho tới ngày nay.

Khi ta chủ trì Cấp cao APEC lúc đầu cũng có ý kiến để các cơ quan, trường học nghỉ cho đỡ kẹt đường. Sau khi cân nhắc, lãnh đạo ta đã quyết định cứ để mọi sinh hoạt diễn ra bình thường. Tôi đã góp phần vào quyết định này vì nhớ tới Cấp cao Thượng Hải 2001 bạn đã cho dân trong các khu phố liên quan tới Hội nghị nghỉ việc và đi nghỉ xa dài ngày do đó đi xe giữa một thành phố hiện đại nhưng có cảm giác rất lạnh lẽo, cứ như là đi trong một thành phố vừa bị dội bom nơ-trôn!

Quả nhiên việc các đoàn xe phóng trên đường phố Hà nội giữa lòng người dân vẫn sinh hoạt bình thường, vui vẻ vẫy chào khách đã gây ấn tượng rất tốt với các vị khách vốn bị cô lập ngay cả ở nước mình.

Cái cảnh Thủ tướng Australia chạy tập thể dục quanh Hồ Hoàn Kiếm giữa dòng người dân tập thể dục buổi sáng là một cảnh rất Việt Nam.

- Sợ rằng làm lễ tân "gần dân" như thế rất dễ xẩy ra sơ xuất ?

- Tất nhiên, việc phát huy phong cách "lễ tân gần dân" là điều rất tốt song cũng phải lo sao cho chu đáo, không sơ xuất điều gì. Việc này không dễ chút nào nếu tính rằng, nhiều người dân chưa tôn trọng trật tự đường phố và giao thông, kể cả vệ sinh công cộng, có khi tiểu tiện tùy tiện. Tôi cứ nhớ mãi khi mới từ Liên Xô về Bộ năm 1956, trong một cuộc họp chuẩn bị đón đoàn nước ngoài tới thăm nước ta, ông Vụ trưởng Lễ tân BNG lúc bấy giờ đã phải nhắc lãnh đạo Hà Nội chú ý tình trạng đái bậy! Về sau, khi giữ các cương vị lãnh đạo tôi cũng phải luôn nhắc nhở các ngành, các cấp chú ý chuyện này.

- Thưa ông, ngoài yêu cầu gần dân, lễ tân ngoại giao còn những yêu cầu nào khác?

Một yêu cầu nữa của công tác lễ tân là "giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc". Điều này thường được thể hiện trong 4 việc: ăn, mặc, giải trí và quà tặng.Theo yêu cầu đó, khi thết khách nhất thiết cố đãi đằng một vài món ăn dân tộc để quảng bá văn hóa ẩm thực của dân tộc mình song cũng không nên quá lạm dụng vì cần tính đến cả khẩu vị của khách. Tôi nhớ có lần chiêu đãi ông Đại sứ Xô-ma-li ở Mát-xcơ-va nhân dịp hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, ĐSQ ta cũng thết món "đầu vị" là nem Sài gòn nhưng thấy ông ta cứ ngồi, không chịu ăn. Hóa ra ông theo đạo Hồi nên không thể ăn nem nhân thịt lợn được! Phát hiện ra điều đó, ta phải thết ông ta trứng rán vậy.
Để tránh mọi trục trặc, tốt nhất là chủ động hỏi trước xem khách kiêng món gì để tránh.Một quy luật bất biến là nhất thiết không được thết những món quá "độc" như món "mộc tồn" chẳng hạn. Trên thế giới có lẽ chỉ có dân ta, dân Triều tiên (cả Bắc lẫn Nam) và một bộ phận dân Quảng Đông Trung quốc là khoái món này. Có người "tinh nghịch" ngầm thết khách ăn món thịt chó để "thử"; khi cảm nhận thấy mùi vị lạ, nhất là khi lộ tẩy thì người ta nôn ọe, oán thoán thì thật tệ hại!

Một yêu cầu thết khách nữa là chủ phải nắm được đặc điểm của món ăn đãi khách để có thể giới thiệu được thì mới có tác dụng quảng bá. Ơ Trung Quốc món nào cũng có "lai lịch" rất lý thú, nhờ vậy chủ có đề tài để giới thiệu và làm đầu câu chuyện. Ví dụ món cơm rang Triều châu xuất phát từ câu chuyện Vua Càn Long vi hành xuống Quảng đông; chiều muộn đói bụng vào một quán bên đường nhưng chủ quán cho biết hết cả thức ăn rồi; nhà Vua bèn yêu cầu vét hết mọi thứ còn lại rang lên ăn. Chủ quán đã chiều theo khách, vét hết cơm nguội và ít thức ăn còn lại rang lên và nhà Vua ăn thấy rất ngon miệng, đặt tên là cơm rang Triều Châu! Tiếc rằng ở ta hình như không có truyền thống này.Các nước còn có quốc tửu, thế nhưng ta lại chưa có, cho dù "quốc lủi" rất ngon, hoàn toàn có thể biến thành quốc tửu, còn rượu vang là đặc sản của phương Tây nên có lẽ chẳng dùng vang Đà lạt làm quốc tửu được.Đó là chuyện thết khách, trong ngoại giao còn chuyện mình nên ăn uống thế nào nữa.

Ở ta có câu: "ăn trông nồi, ngồi trông hướng", câu này hoàn toàn có thể trở thành phương châm của ngoại giao. Ở trong rừng ra, từ đồng ruộng lên, mình có biết cách ăn, cách uống lịch lãm theo kiểu ngoại giao, dùng dao dĩa ra sao đâu? Vậy lúc đầu chưa quen, tốt nhất là đừng áp dụng phương châm "ăn đi trước" mà hãy áp dụng câu châm ngôn trên: để ý xem người ta ăn, người ta uống thế nào rồi bắt chước làm theo thì khỏi bị hố. Đây cũng là điều Bác Hồ dậy cán bộ ngoại giao khi Bác đến thăm Bộ.

Cá nhân tôi có 2 chuyện nhớ đời về phương diện này. Năm 1951 chúng tôi được đưa sang Trung Quốc học. Vừa ở trong rừng Việt Bắc sang Nam ninh, tối hôm đó được đưa vào một hiệu Cao lâu đèn nê-ông sáng lòa, bàn trải khăn trắng phau. Người ta bầy lên bàn la liệt thức ăn, trong đó có món đậu phụ nhự (có khi ta gọi là chao) vốn là một đặc sản của Quảng Tây. Tôi gắp cả miếng cho vào miệng thì cay ơi là cay, như ngậm hòn than nóng vào miệng nhưng nuốt không trôi, nhả ra không đặng nên đành chiêu một ngụm nước rồi nuốt chửng.

Còn một lần khác, nhân Hội nghị quốc tế 81 Đảng cộng sản và công nhân ở Mát-xcơ-va năm 1961 tôi được huy động vào phục vụ Đoàn Đảng ta do Bác Hồ dẫn đầu. Mỗi bữa ăn bạn bầy trên bàn đủ sơn hào hải vị và tôi cứ hồn nhiên gắp ăn. Thấy vậy Bác Hồ nhắc: cháu ăn món nào thì ăn hết đĩa đó đi chứ mỗi đĩa gắp một chút thừa ra ai ăn? Từ đó trở đi tôi cứ nhắm món mình ưa thích giã cho hết rồi "chuyển làn" sang món khác.

Trong ngoại giao uống cũng phải rất chừng mực, không thể "dzô,dzô" hay "100%" được vì sẽ mất tư thế, thậm chí có thể để xẩy ra sơ xuất ngoại giao. Hồi mới ra làm việc tại ĐSQ nước ta ở Mát-xcơ-va, một lần ĐSQ Mông Cổ tổ chức liên hoan giữa 4 ĐSQ XHCN ở châu A là Việt Nam, Trung Quốc, Triều tiên và Mông Cổ. Một anh cán bộ ĐSQ ta ngà ngà say rồi ngủ gà ngủ gật, tay cầm cốc rượu cứ thế rót vào...đùi bà Mông Cổ ngồi bên cạnh! Giữ ý, bà ta cứ ngồi yên cho tới khi chén rượu cạn mới nhẹ nhàng đứng lên ra ngoài. Bà ấy ứng xử đúng là ngoại giao.

Về mặc thì cho tới nay ta cũng chưa định hình được quốc phục trong khi tất cả các nước trong ASEAN và nhiều nước khác đã có. Hồi anh Sáu Dân làm Thủ tướng cũng đã nêu vấn đề này, thậm chí đã cho thiết kế và trưng bầy nội bộ song không thành vì lắm ý kiến quá. Có thời Bộ Ngoại giao đã phải sáng chế ra "quốc phục" cho các đại sứ ta trình quốc thư: đó là chiếc áo hao hao như áo Tôn Trung Sơn của Trung Quốc (tức áo cổ cao, cài kín) do đó báo chí phương Tây đã bình luận rằng, ngay cả ăn mặc ta cũng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Sau ta đã phải bỏ kiểu "quốc phục" này, khi cần thì đi thuê áo đuôi tôm (smoking) vậy. Năm 2007, khi tôi sang Nhật nhận Huân chương "Mặt trời mọc" của Nhật hoàng, ĐSQ nước ta cũng đã phải thuê cho tôi một bộ như vậy.

Nước chủ nhà thường tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ để giới thiệu văn hóa nước mình, đồng thời để tỏ lòng mến khách đôi khi điểm vài tiết mục hát múa dân tộc của nước đoàn đến thăm. Vấn đề là nội dung, chất lượng và liều lượng làm sao cho thích hợp. Đương nhiên những tiết mục "đinh" phải mang đậm bản sắc dân tộc song chẳng nên tham trình diễn những tiết mục dài lê thê, khó hiểu, làm cho khách mỏi mệt mà nên xen lẫn những tiết mục hiện đại, sôi động. Còn những tiết mục cốt để "khoe" rằng ta cũng hiểu biết nền văn hóa của khách thì cũng chẳng nên lạm dụng vì làm sao ta có thể trình diễn hay hơn nghệ sỹ của họ được?

Về thời lượng buổi biểu diễn thì không nên tham lam, quá kéo dài. Sở dĩ đề cập chuyện này vì tôi đã từng vấp phải những thiên hướng như vậy mỗi khi xét duyệt các chương trình nghệ thuật. Tôi nhớ mãi Cấp cao ASEM-5: anh em Bộ Văn hóa đã chuẩn bị tiết mục các em thiếu nhi múa hát trước mặt các vị trưởng đoàn ngồi trên Đoàn Chủ tịch. Thấy cảnh các cháu mồ hôi nhễ nhại, son phấn chảy ròng ròng, các tiết mục cũng không có gì là " đặc sắc dân tộc" cả nên tôi đã đề nghị bố trí một dàn kéo violon ăn mặc lịch sự, biểu diễn một bài nhạc Việt Nam, một bài kinh điển của Betthoven vừa nhẹ nhàng, vừa lịch lãm, vừa thể hiện sự giao thoa văn hóa Đông-Tây đúng với tinh thần Á-Âu.

Quà tặng trong ngoại giao cũng phải mang sắc thái dân tộc, đồng thời phải bảo đảm chất lượng cao. Mặt khác khi tặng quà cần nắm được truyền thống và luật lệ của mỗi nước. Một thời ta hay tặng đồ sơn mài, nhiều khi là hàng chợ; chất lượng nghệ thuật rất thấp đã dành, chất lượng về mặt kỹ thuật vô cùng tồi. Một lần tôi gập Thượng nghị sỹ Mỹ thuộc Đảng Cộng hòa M'Caine (từng bị ta bắn rơi ở hồ Trúc bạch, sau được bầu làm TNS, có lúc đã ra tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ); khi chia tay, ông đề nghị tôi nán lại một chút rồi đi vào phòng bên lấy ra một bức tranh sơn mài Việt Nam đã cong vênh rồi nói: các bạn nên chú ý chất lượng quà tặng, tôi hiểu Việt Nam thì không sao, nếu là người khác thì không hay! Thật tình tôi ngượng chín cả mặt, chỉ còn biết hứa sẽ để ý việc này.

Luật lệ ở một số nước rất ngặt nghèo trong việc nhận quà biếu của nước ngoài. Khi đi tiền trạm cho anh Sáu Dân sang thăm Singapore để bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, lễ tân của bạn dặn tôi rằng, các ông đừng mang theo tặng phẩm vì sau khi nhận chúng tôi phải làm thủ tục nộp hết cho Bộ Tài chính, muốn giữ lại thì phải bỏ tiền ra mua nên rất phiền toái! Đối với những nước như vậy thì cùng lắm chỉ nên tặng quyển sách tranh phong cảnh hay tranh nghệ thuật nước ta là đủ, còn đối với những nước phương Đông như Trung Quốc, Nhật hay Hàn Quốc thì lại nên có quà, chủ yếu là những đồ thủ công mỹ nghệ đẹp bền, còn đối với các nước theo đạo Hồi thì chớ tặng tranh vẽ người, động vật.

Nói chung, trong lễ tân ngoại giao, để bảo đảm cho mọi việc trôi chẩy có lẽ cần tuân thủ hai phương châm cơ bản; một là, phải có kế hoạch rất tỷ mỉ và phải kiểm tra kỹ lưỡng từng ly từng tí một, xểnh ra là "sai một ly đi một dặm", có thể để lại những hệ quả khôn lường; hai là, cố dự liệu nhiều phương án khác nhau, kể cả tình huống xấu nhất, bất ngờ nhất để có sẵn phương án xử lý.

Ba chuyện cười ra nước mắt

Nếu kể ra những chuyện cười ra nước mắt về lễ tân mà tôi đã gập phải trong đời để rút ra những phương châm ngắn gọn nói trên có lẽ phải mất hàng trăm, hàng nghìn trang giấy. Để xả hơi, tôi xin kể ra đôi ba chuyện.

Năm 1956 ở Hung-ga-ri nổ ra cuộc nổi loạn. Với sự trợ giúp của Liên Xô, một chính quyền mới được thành lập bao gồm chủ yếu là các nhà lão thành cách mạng đã từng tham gia cuộc Cách mạng năm 1918 ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga. Sau khi tình hình tạm ổn, một đoàn đại biểu cấp cao của chính quyền mới do Thủ tướng Ferenc Munich dẫn đầu đi thăm các nước bạn bè để cảm ơn, trong đó có nước ta. Lúc đó ở ta chưa có phiên dịch tiếng Hung nên phải dùng phiên dịch tiếng Nga và tôi được cử đi phục vụ đoàn. Đoàn xuống thăm Hải phòng rồi ra Quảng ninh; cùng đi có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lãnh đạo Hải phòng đã mở tiệc chiêu đãi đoàn và đương nhiên có món hải sản là cá hấp maionese. Chính món này là tác nhân làm cho cả đoàn bị...tháo tỏng, trừ ông trưởng đoàn thoát nạn vì ông không ăn cá. Tới Quảng ninh, tình hình nghiêm trọng đến nỗi không còn đủ chỗ để đi ngoài (lúc ấy Khách sạn Hạ Long chỉ có nhà xí công cộng ở đầu hồi), đành phải đặt ngửa chiếc bàn ping-pông rồi đổ tro lên để mọi người chổng mông ngồi xung quanh xả ra. Từ đó tôi rút ra kinh nghiệm là không bao giờ nên mời khách ăn những món "đặc sản", nhất là hải sản lại để trong tủ lạnh.

Năm 1973 tôi theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh qua Moscow sang Paris dự lễ ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Khi ra sân bay Vnukovo, chúng tôi ngồi mãi trên máy bay nhưng không thấy cất cánh mà bên sân bay Orly sẽ có rất nhiều quan chức, phóng viên, bà con Việt Kiều... tập hợp để đón đoàn; sang chậm có thể gây ra những sự đồn đoán bất lợi. Ông Trinh bảo tôi xuống máy bay xem có chuyện gì trục trặc; khi tôi xuống thì các ông lãnh đạo ĐSQ cứ lảng đi, một mực không muốn nói chuyện với tôi. Phải gặng hỏi mãi mới biết anh cán bộ lãnh sự của ĐSQ đi lấy hộ chiếu tại ĐSQ Pháp tới nay vẫn chưa thấy ra sân bay và không biết làm cách nào liên lạc được (lúc đó chưa có điện thoại di động). Tôi lên máy bay báo cáo ông Trinh về ngọn nguồn. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy "giận tím mặt" là thế nào!

Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô Firubin trực tiếp gọi điện thoại hỏi Đại sứ Pháp thì được trả lời rằng, đã cấp visa từ sáng sớm rồi; còn ông Phó Ban thứ nhất Ban Đối ngoại TW Đảng Rakhmanin chỉ thị cho công an kiểm tra xem có xe ngoại giao nào mang số 84 là số của ĐSQ Việt Nam bị nạn không thì được trả lời là không. Ông Rakhmanin phải lên máy bay nói chuyện trên trời dưới đất với ông Trinh để ông ấy đỡ sôi me. Hàng tiếng sau mới thấy anh cán bộ lãnh sự ĐSQ hớt hải chạy ra đưa vội hộ chiếu cho đoàn. Hóa ra anh ta đi nhầm sân bay, thay vì ra sân bay Vnukovo thì anh ta đã ra sân bay quốc tế Sheremetievo cách đó hơn 100 km mà đường mùa Đông đầy tuyết phải mất hàng tiếng đồng hồ mới sửa được sự nhầm lẫn tai hại của mình!

Câu chuyện tầy đình này càng cho thấy bao giờ cũng phải nắm rất rõ địa chỉ nơi mình đến.

Trong lần đi dự Hội nghị quốc tế thông qua Định ước để bảo đảm cho Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam tôi lại gặp trục trặc với ĐSQ ta ở Moscow. Số là lúc đó sắp đến Tết ta, ông Trinh yêu cầu mang theo 5 cành đào để tặng cho 2 Đoàn cũng như cơ quan đại diện ngoại giao miền Bắc và miền Nam, bà con Việt Kiều ở Paris. Đích thân tôi mang những cành đào đó lên máy bay ở Hà Nội nhưng đến Paris chỉ còn 3 cành! Vậy đi đâu mất 2 cành, chẳng nhẽ rơi ra ngoài trời à? Tôi bèn đánh telex sang Moscow hỏi; quả nhiên ĐSQ ở đó đã tự ý lấy 2 cành cho 2 cơ quan đại diện ở Liên Xô mà không hề báo cáo Đoàn.

Lại nữa, sang tới nơi thấy mất vali của một đồng chí đại tá của ta sẽ từ Paris vào Sài Gòn để tham gia Ban liên hiệp đình chiến. Hỏi ra mới biết ĐSQ ta ở Moscow đã lấy nhầm vali của anh ta vì nghĩ rằng đó là hành lý của một anh cùng tên đi nhờ máy bay! Để kịp cho đồng chí đại tá rời Paris đành phải mua quần áo mới.

Năm 1991 sau khi Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm và tôi sang thăm Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham sang đáp lễ. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Ngoại trưởng Trung Quốc sang ta. Đương nhiên ta rất coi trọng chuyến thăm, vả lại quan hệ Việt - Trung còn đang trong quá trình bình thướng hoá trở lại sau hơn một chục năm sóng gió, do đó ta càng chuẩn bị chu đáo. Dè đâu đang hội đàm thì điện tắt phụt, Nhà khách 12 Ngô Quyền lại không chuẩn bị sẵn máy nổ nên phải dừng hội đàm mất một lúc khá lâu, chúng tôi tái cả người, không biết bạn có hiểu lầm không? Sau đận đó đành phải cách chức anh chàng phụ trách Nhà khách.

Những chuyện như vậy thì không sao có thể lường trước được; bí quyết chỉ là phải hết sức tỷ mỷ, kiểm tra đi kiểm tra lại nhiều lần đối với mọi việc, dù là nhỏ nhất, cố hình dung và dự tính các tình huống khác nhau trong khả năng có thể; nếu xẩy ra những tình huống bất ngờ thì nhanh trí xoay xở mà thôi.

Đó là những chuyện sơ xuất của ta, còn phía bạn cũng có khi sơ xuất. Đã từng xảy ra trường hợp bạn cử quốc ca của chính quyền Sài Gòn đón đoàn miền Nam của ta chỉ vì ở xa, không có thông tin, ta lại chưa có cơ quan đại diện tại chỗ, không có đoàn tiền trạm sang.

Những nghi thức lễ tân có khi phản ánh thái độ chính trị nhưng có khi chỉ là sơ xuất kỹ thuật, vô tình hay do thông lệ của bạn khác của ta, ta chẳng nên quá câu nệ ảnh hưởng đến quan hệ ở tầm quốc gia. Trên thực tế đã từng xẩy ra sự căng thẳng chỉ vì nghi thức lễ tân không khớp nhau do mỗi nước có luật lệ và tình huống khác nhau.

Có lẽ Bộ Ngoại giao ta nên tổ chức cho anh chị em trong ngành, nhất là các đồng chí đã nghỉ hưu viết lại những mẩu chuyện "cười ra nước mắt" ấy không chỉ để cười vui mà chủ yếu để các thế hệ hiện nay và mai sau rút kinh nghiệm.

Cám ơn ông Vũ Khoan đã "bật mí" nhiều "bí kíp" của công tác lễ tân ngoại giao.