Thứ Hai, 30 tháng 8, 2010

Tìm hiểu sức chiến đấu tàu khu trục Việt Nam đặt mua

Tàu khu trục nhỏ "Gepard 3.9" của Nga được phát triển trên nền tảng dự án tàu 11.660 của Nga. Dự án này được thành lập là nhằm để phát triển loại tàu tuần tra mới tìm kiếm cũng như theo dõi và kiểm soát bề mặt, dưới nước và các mục tiêu trên không. Hoàn thành được cả các hoạt động độc lập hay hết hợp với các hoạt động khác, tuần tra bảo vệ biên giới biển.

Nhiệm vụ cấp thiết

Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, hải quân Nga đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết là chế tạo ra loại tàu tuần tra mới thay thế cho các tàu hộ tống nhỏ lớp Koni, Grisha và Parchim và đảm bảo có thể độc lập chống lại các tàu nổi, tàu ngầm và các mục tiêu trên không của đối phương.

Cục thiết kế ZPKB Zelenodolsk của Nga đã đáp ứng yêu cầu trên bằng việc bắt tay thực hiện đề án 11660. Nhưng tới cuối năm 1988, tất cả các dự án trên đã bị buộc phải ngừng lại do thiếu tài chính.

Kết quả là ZPKB Zelenodolsk đã lựa chọn phát triển chỉ một số các tàu có khả năng cải tiến và nó được đặt tên là dự án 1166.1 sản xuất các tàu "Tatarstan" được biên chế vào lực lượng hải quân Nga từ ngày 7/12/2002 hiện là chủ lực trong hạm đội Caspi và các loại tàu dành cho xuất khẩu như pr.1166.1 Cheetah và pr.1166.1 Gepard 3.9.

Lớp Gepard được thiết kế như một loại tàu chiến trọng lượng nhẹ, giá thành không quá đắt cho xuất khẩu với 5 thế hệ tàu là:

Gepard-1: Có bãi đáp trực thăng nhưng không có khoang chứa máy bay.

Gepard-2: Có bãi đáp trực thăng và chỗ chứa máy bay.

Gepard-3: Tăng sườn ngang lên 13,8m; lượng rẽ nước lên 2.100 tấn khi đầy tải; một Kortik CIWS đặt phía trước thay thế cho các AK-630; nhà chứa máy bay. Có bãi đáp trực thăng và chỗ chứa máy bay.

Gepard-4: Phiên bản không có trang bị vũ trang mà chỉ dành cho tìm kiếm cứu hộ dù các điểm đặt vũ khí vẫn được chế tạo. Có bãi đáp trực thăng và chỗ chứa máy bay.

Gepard-5: Có bãi đáp trực thăng, không nhà chứa máy bay, tầm hoạt động lên tới 11.000 km, tốc độ tối đa 23 hải lý, các turbine được thay thế bằng 2 động cơ diesel 8.000bhp.

Tàu Việt Nam mua có gì mới?

Trong một hợp đồng được ký kết giữa Hải quân Việt Nam và Nga năm 2008, phía Việt Nam đã đặt mua của Nga 2 chiếc tàu đa năng hạng nhẹ Gepard-3.9 để thực hiện các nhiệm vụ hộ tống, tuần tiễu, bảo vệ hải quân và vùng đặc quyền kinh tế, yểm trợ các hoạt động trên biển.

Khi cần thiết, Gepard-3.9 có thể săn tìm, theo dõi, tác chiến hiệu quả chống các mục tiêu tàu nổi, tàu ngầm, máy bay; tuần tiễu, hộ tống, rải lôi, chi viện hỏa lực cho lực lượng đổ bộ. Tàu có thể hoạt động tác chiến độc lập hoặc trong đội hình biên đội tàu chiến thuật.

2 chiếc tàu Hải quân nước ta đặt mua đã có thêm một số cải tiến mới so với nguyên bản của chiếc Gepard 3.9 mang tên là Gorky.

"Chúng tôi đã cải tiến thiết kế cho các tàu của hải quân Việt Nam bằng việc bổ sung tính năng tàng hình và trang bị thêm một số thiết bị khác trên boong tàu" - Leonid Sharapov, giám đốc Cục thiết kế Zelenodolsk cho hay.

Thiết kế mới giúp cho các tàu khu trục của Hải quân Việt Nam có thể đảm bảo được chỗ ăn ở cho 103 thuyền viên và hệ thống điều hòa không khí mới, hệ thống vũ khí tiên tiến nhất của Nga hiện nay. Có thể mang theo một máy bay trực thăng hải quân Ka-28 hoặc máy bay trực thăng KA-31 ở khu đuôi tàu có nhiệm vụ chính là chống ngầm.

Chiếc tàu thứ hai cũng đã được cắt băng khánh thành tại nhà máy Zelenosolsk hôm 16/3/2010. Trong các tháng tới nó sẽ được chạy thử nghiệm trước khi trở về biển Đông của Việt Nam.

Tính năng kỹ thuật của mẫu Gepard 3.9

Gepard 3.9 có khả năng hoạt động độc lập cũng như có thể tác chiến với cả tàu ngầm và tàu chiến, tiêu diệt các mục tiêu trên không.

Gepard 3.9 rẽ nước 2.100 tấn, dài 102,2m, rộng 13,1m, mớn nước cao 3,8m.

Tốc độ tối đa 28 hải lý/ giờ.
Tầm hoạt động 5.000 hải lý.
Độ dài của một chuyến đi: 20 ngày.
Hệ thống điều hòa không khí hiện đại.
Sử dụng turbine dùng cả dầu và khí gas có thể đi 5.000 dặm mà không cần tiếp nhiên liệu.

Xuất xứ: xưởng đóng tàu Zelenodolsk trên sông Volga, ở cộng hòa Tatarstan.
Đơn giá: khoảng 35 triệu USD/chiếc Gepard 3.9.
Hệ thống vũ khí

Trang bị hệ thống tên lửa chống hạm Uran gồm 4 bệ phóng, mỗi bệ có 16 quả tên lửa chống tàu nổi Kh - 35E.

Một súng 76,2 mm AK-176M đặt ở mũi tùi dùng để chống mục tiêu trên mặt nước, mặt đất và máy bay tầm thấp có tốc độ bắn 60-120 phát mỗi phút, tiêu diệt mục tiêu ở cự ly trên 15km và bay cao 11,5km.

3 tên lửa pháo phòng không cao tốc Palma-SU có thể đánh chặn đồng thời 6 mục tiêu ở cự ly 200-8.000m và bay cao 3.500m, thời gian phản ứng của hệ thống là 3,5s. Có thể tác chiến chống máy bay, trực thăng, bom, tên lửa hành trình chống hạm, tàu nhỏ và mục tiêu trên không. Palma gồm hai pháo tự động 6 nòng 30mm AO-18KD/6K30GSh và 8 tên lửa siêu vượt âm dẫn bằng laser Sosna-R (lắp trên hai cụm ống phóng 3R-99E).

Các pháo AO-18KD 30mm có tầm bắn xa 200-4.000 m và bắn cao đến 3.000 m. Cơ số đạn 1.500 viên đạn xuyên giáp, phá-mảnh hoặc cháy. Các khẩu pháo có tốc độ bắn tối đa 10.000 phát một phút.

Hệ thống tên lửa Sosna có tầm bắn mục tiêu bay hiệu quả ở độ cao 2.000 - 3.500 m và cự ly 1.300 - 8.000 m. Hệ thống điều khiển hỏa lực của Palma gồm camera thường 3V-89 và camera hồng ngoại, máy đo xa laser, hệ thống dẫn tên lửa bằng tia laser và radar bắt mục tiêu 3Ts-99.

2 súng máy 30mm AK-630 M.

2 ống phóng ngư lôi 533 mm.

1 dàn 12 ống phóng rocket RBU-6000 chống ngầm.

Vũ khí đáng sợ nhất của Gepard-3.9 là 3M24 (Kh-35) Uran, NATO gọi là SS-N-25 Switchblade, một loại tên lửa chống hạm.

Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2010

Tướng Trung Quốc bàn về niềm tin và đạo đức


Tác giả: Lưu Á Châu (Liu Ya-zhou, Trung Quốc)
Bài đã được xuất bản.: 15/08/2010 12:00 GMT+7

Có một câu chí lý thế này: Hay bàn luận về khuyết điểm của người khác thì anh là kẻ đạo đức thấp kém. Hay bàn luận về khuyết điểm của nhân loại thì anh là một nhà tư tưởng.

LTS: Lưu Á Châu sinh năm 1952, là con rể cố Chủ tịch nước Trung Quốc Lý Tiên Niệm, có thời là Phó Chính uỷ bộ đội không quân Trung Quốc, nay là Chính uỷ Trường đại học Quốc phòng Trung Quốc, từng là giáo sư thỉnh giảng của ĐH Stanford Mỹ. Ông đồng thời là một nhà văn có tiếng, chủ nhân một số giải thưởng văn học. Các bài viết của ông ngôn từ mạnh dạn, quan điểm mới mẻ (nhất là quan điểm đối với Mỹ), lập luận sắc bén của ông được dư luận rất quan tâm.


Dưới đây là phần lược dịch bài nói ngày 11/9/2002 của ông - Trung tướng không quân Lưu Á Châu, lúc đó là Chính uỷ bộ đội không quân Quân khu Thành Đô Trung Quốc, trước các cán bộ quân đội cấp tiểu đoàn trở lên tại căn cứ không quân Côn Minh, Vân Nam.

Tuần Việt Nam xin đăng lại ý kiến cá nhân của ông, một vị Trung tướng của Trung Quốc để rộng đường dư luận. Mời quý bạn đọc gần xa, trong nước và nước ngoài gửi bài, ý kiến trao đổi, tranh luận.

Người phê phán văn hoá Trung Hoa

Trong quá khứ, tôi trước tiên là người kế thừa văn hoá Trung Hoa, sau đó mới là người phê phán văn hoá Trung Hoa. Hiện nay tôi trước tiên là người phê phán văn hoá Trung Hoa sau đó mới là người kế thừa.

Lịch sử phương Tây là một bộ sử sửa cái xấu, cái sai thành cái tốt, cái đúng. Lịch sử Trung Quốc thì là một bộ sử sửa cái tốt cái đúng thành cái xấu cái sai. Thời cổ, phương Tây cái gì cũng cấm, chỉ có điều không cấm bản năng con người. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, riêng bản năng thì cấm.

Người phương Tây dám thể hiện bản thân, tức thể hiện tư tưởng mình và còn dám phô bầy thân xác loã lồ của mình. Trung Quốc chỉ biết mặc quần áo, mặc quần áo cho tư tưởng. Mặc bao giờ cũng dễ hơn cởi. Phương Tây đả kích mặt đen tối của mình, cho nên tìm được ánh sáng, tư tưởng của họ đang bay bổng. Chúng ta ca ngợi sự sáng sủa của mình, kết quả đem lại bóng tối nghìn năm.

Trung Quốc không có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược. Hegel từng nói: "Trung Quốc không có triết học." Tôi cho rằng mấy nghìn năm nay Trung Quốc chưa sản sinh được nhà tư tưởng nào. Nhà tư tưởng tôi nói là những người như Hegel, Socrates, Plato, những nhà tư tưởng ấy có cống hiến to lớn đối với tiến trình văn minh nhân loại. Lão Đan [tức Lão Tử - ND], bạn nói ông ấy là nhà tư tưởng phải không?

Chỉ dựa vào "Đạo đức kinh" 5000 chữ mà có thể làm nhà tư tưởng ư? Đấy là chưa nói "Đạo đức kinh" của ông có vấn đề.

Khổng Tử có thể coi là nhà tư tưởng chăng? Thế hệ chúng ta xem xét ông thế nào? Tác phẩm của ông bị xem xét ra sao? Tác phẩm của ông chưa từng cung cấp cho nội tâm người Trung Quốc một hệ thống giá trị có thể đối kháng quyền lực thế tục. Cái mà ông cung cấp là tất cả xoay xung quanh quyền lực.


Ông Lưu Á Châu
Nếu Nho học là một tôn giáo thì đó là một tôn giáo rởm; nếu là tín ngưỡng thì là tín ngưỡng rởm; nếu là triết học thì đó là triết học của xã hội quan trường hoá. Xét trên ý nghĩa này thì Nho học có tội với người Trung Quốc.
Trung Quốc không thể có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược. Xã hội Trung Quốc là xã hội binh pháp, dân tộc ta chỉ tôn sùng nhà mưu lược. Một Gia Cát Lượng chẳng mấy thành công về sự nghiệp lại được người ta kỷ niệm nhiều lần. Ông ấy bụng dạ kém khoáng đạt, cách dùng người cũng chưa thích hợp.

Có tư liệu cho thấy ông ta còn là kẻ lộng quyền. Nhưng chính con người như thế lại được nâng lên tầm cao phát sợ. Đây cũng là một phác hoạ tâm hồn dân tộc ta. Dưới hình thái xã hội như thế có ba loại hành vi thịnh hành ở Trung Quốc.

Ba loại hành vi thịnh hành tại Trung Quốc

1.Thuật nguỵ biện. Con trai tôi năm nay thi vào khoa báo chí một trường đại học. Khoa này là một trong những khoa báo chí tốt nhất Trung Quốc. Tôi bảo nó: Đưa giáo trình cho bố xem. Đọc xong tôi bảo thứ này không đáng đọc. Trong giáo trình có một suy đoán như sau: Trung Quốc phát minh ra thuốc nổ; thuốc nổ truyền tới châu Âu đã phá tan dinh luỹ phong kiến Trung thế kỷ của châu Âu. Thật nực cười. Thuốc nổ anh phát minh ra phá tan dinh luỹ phong kiến của người ta, thế sao dinh luỹ của chính anh lại không bị phá vỡ? Ngược lại còn vững chắc hơn?

Tại Đại học Quốc phòng Trung Quốc, khi thảo luận vấn đề Đài Loan có một quan điểm được nhiều người tán đồng như sau: Đài Loan như một cái ổ khoá. Nếu không giải quyết được vấn đề Đài Loan thì ổ khoá ấy sẽ khoá chặt cánh cổng lớn của Trung Quốc, Trung Quốc sẽ không có lối ra biển cả. Đó là sự nguỵ biện. Tây Ban Nha sau khi trở thành cường quốc biển, đâu có thể ngăn cản anh hàng xóm Bồ Đào Nha cũng trở thành cường quốc biển. Eo biển Dover của Pháp cách nước Anh có 28 hải lý, Anh Quốc có thể ngăn cản Pháp trở thành cường quốc biển không?

Trung Quốc mất biển, chủ yếu là do tầng lớp thống trị Trung Quốc nhiều đời chưa có quan điểm Quyền lực biển.

Có lẽ mọi người chưa chú ý tới chuyện một số hội Phật Giáo, Đạo giáo thường đứng ra chủ trì việc phê phán một số đoàn thể mê tín phong kiến, các vị đạo trưởng ung dung nói năng, phê phán người ta là mê tín phong kiến. Tôi muốn cười thầm nhưng lại không nhịn được cười thành tiếng. Bảo người ta là mê tín phong kiến, lẽ nào ông là duy vật chăng? Chẳng phải cũng là mê tín đó sao?

2. Đối ngoại lôi kéo vỗ về, đối nội tàn nhẫn. Văn minh châu Âu và văn minh Trung Quốc hầu như đồng thời cất bước nhưng châu Âu hình thành nhiều quốc gia nhỏ, Trung Quốc hình thành một đại đế quốc thống nhất. Nói tới chuyện này chúng ta thường hí hửng phấn khởi. Thực ra châu Âu hình thành nhiều quốc gia như thế chính là một dạng thể hiện tư tưởng tự do của họ. Tuy hình thành nhiều quốc gia như vậy nhưng bao nhiêu thứ có liên quan đến văn minh nhân loại chính là sinh ra từ các tiểu quốc chia tách ra ấy.

Còn chúng ta đã làm được gì cho văn minh thế giới? Có thể khẳng định, thống nhất giang sơn có mối quan hệ tất nhiên nào đó với tư tưởng thống nhất. Xã hội mưu lược là xã hội hướng nội.

Tôi từng nghiên cứu kỹ sự khác biệt giữa Trung Quốc với Mỹ. Trên mặt công việc quốc tế, về cơ bản Trung Quốc mềm mỏng, còn trên mặt công việc trong nước thì cứng rắn. Nước Mỹ ngược lại, họ rắn trên mặt công việc quốc tế, mềm trên mặt công việc trong nước. Chẳng còn nhớ trong một cuốn sách nào đấy tôi có đề cập vấn đề này, có lẽ là cuốn Đánh giá nguy hiểm tác chiến với Đài Loan, và kết luận: Chuyện này là do sự khác biệt văn hoá quyết định.

Văn hoá Trung Quốc có tính khép kín, kín đáo, hướng nội. Văn hoá Mỹ thì cởi mở, hướng ngoại. Tư tưởng đại nhất thống cũng là tư tưởng kiểu hướng nội. Điều đó giải thích vì sao trước bọn xâm lược nước ngoài thì chúng ta là bầy cừu, trước đồng bào mình thì chúng ta là lang sói. Ngót trăm lính Nhật là đủ để áp giải 50 nghìn tù bình quân Quốc Dân Đảng đến Yến Tử Cơ [một địa danh thuộc tỉnh Giang Tô - ND] xử bắn. Chưa nói đến chống lại, các tù binh này chẳng có cả tới dũng khí bỏ chạy nữa kia.

3. Hành vi thô bỉ. Sự thô bỉ về tinh thần ắt đem lại sự thô bỉ trong hành vi. Sự cao quý tinh thần ắt sẽ đem lại sự cao quý trong hành vi. Khoảng hai chục năm trước khu phố nhà tôi có xảy ra chuyện như sau: Một đôi vợ chồng li dị, ông chồng dẫn cô bồ mới về nhà, hai vợ chồng cãi nhau. Bà vợ chạy lên gác trên muốn nhảy lầu. Rất nhiều người xúm lại xem. Có kẻ vì hí hửng khi thấy người khác gặp tai nạn mà hét to: "Nhảy đi, nhảy đi!" Về sau cảnh sát đến cứu được bà kia xuống, những người xem thậm chí còn cảm thấy tiếc rẻ.

Tôi thở dài một cái rồi về nhà, mở ti-vi xem. Đúng lúc ấy trên ti-vi đang chiếu bộ phim kể về một chuyện có thật xảy ra ở châu Âu. Chuyện như sau: Một nước nào đó, nhớ mang máng là Hungary thì phải, 70 năm trước có một anh thợ mỏ trẻ sắp cưới vợ. Trong lần cuối cùng xuống giếng mỏ trước ngày cưới thì mỏ xảy ra sụt lở, anh thợ kia mãi mãi không thể trở về. Cô dâu không thể tin rằng người yêu của mình có thể bỏ cô mà đi, cứ thế đằng đẵng chờ 70 năm trời.

Cách đây ít lâu người ta sửa lại hầm mỏ, phát hiện thấy trong vũng nước đọng ở chỗ sâu có một xác người. Đó chính là chàng rể- thợ mỏ nọ bị vùi dưới giếng 70 năm trước. Vì dưới ấy không có không khí, xác lại ngâm trong nước có khoáng chất nên người ấy trông vẫn trẻ như lúc chết. Cô dâu thì đã là bà lão tóc bạc phơ.

Bà cụ ôm lấy người yêu khóc nức nở. Bà quyết định tiếp tục làm lễ cưới của họ. Cảnh này thật quá xúc động: Cô dâu 80 tuổi mặc áo cưới trang trọng một màu trắng như tuyết. Tóc cũng trắng như tuyết. Người yêu của bà thì vẫn trẻ như xưa, mắt nhắm nghiền nằm trên cỗ xe ngựa. Hôn lễ và tang lễ đồng thời tiến hành. Bao nhiêu người rơi lệ.

Vụ 11/9 thử thách trình độ đạo đức quốc dân

Vụ 11/ 9 năm ngoái là sự việc có thể khảo nghiệm trình độ đạo đức của dân tộc ta nhất. Hôm nay [tức 11/09/2002 - ND] vừa đúng tròn một năm sự kiện ấy. Vụ 11/ 9 tuy không thể thay đổi thế giới nhưng đã thay đổi nước Mỹ. Đồng thời, thế giới sau ngày ấy rất khó trở lại trước sự kiện này.

Khi xảy ra vụ 11/9, ít nhất trong một quãng thời gian sau đó nước ta bị bao phủ bởi một bầu không khí không lành mạnh. Tối hôm 12/9, có người bạn gọi điện thoại cho tôi nói sinh viên ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa đang khua chiêng gõ trống. Tôi bảo đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc còn chưa lọt vào vòng sau kia mà, phải đến mồng 7/10 đội Trung Quốc mới đấu trận cuối cùng với đội Liên hiệp Vương quốc A Rập, nếu thắng thì sẽ lọt vào danh sách dự World Cup. Một lúc sau mới biết thì ra sinh viên Trung Quốc đang chúc mừng việc toà tháp đôi Mỹ bị đánh sập.


Tòa tháp đôi của Mỹ bị tấn công ngày 11/09/2001
Báo chí nước ngoài đưa tin: Hồi ấy có một đoàn nhà báo Trung Quốc đang ở thăm Mỹ, khi thấy hình ảnh toà nhà Trung tâm Thương mại thế giới bị đánh phá, các thành viên đoàn nhà báo này bất giác vỗ tay. Đây là một dạng ngấm văn hoá; điều đó không thể trách họ, bọn họ đã không thể kiềm chế được bản thân.
Kết quả họ bị [chính phủ Mỹ - ND] tuyên bố là những người mãi mãi không được hoan nghênh. Hồi ấy tôi đang ở Không quân Bắc Kinh [1], mấy hôm ấy đều có người ở bộ đội đến thăm, gặp ai tôi cũng hỏi quan điểm của họ đối với vụ 11/9. Tất cả đều trả lời: Đánh bom hay lắm.

Sau này tôi nói đây là một tình trạng rất đáng buồn. Nếu những người ấy yêu mến Trung Quốc, thế thì có cứu được Trung Quốc hay không? Về giới truyền thông thì càng chẳng nên nhắc tới. Ở Trung Quốc, nơi không có tin tức nhất là trên báo chí.

Năm 1997 công nương Diana chết vì tai nạn giao thông. Cho dù Diana là người thế nào, hoàng gia Anh Quốc ra sao thì ít nhất bà ấy cũng có giá trị tin tức. Các tờ báo lớn trên thế giới đều đăng tin này trên trang nhất, riêng báo chí Trung Quốc không đăng tin ấy. Hôm đó tin tức đầu bảng của các tờ báo lớn ở Bắc Kinh là "Các trường trung, tiểu học Bắc Kinh hôm nay khai giảng". Tin này chẳng khác gì tin "Người Bắc Kinh hôm nay ăn sáng rồi", chỉ có cái giá trị [thông tin - ND] ấy thôi.

Tối hôm 11/9 tôi ngồi xem chương trình "Tiêu điểm phỏng vấn" trên ti-vi. Tôi muốn xem xem "những cái miệng lưỡi của đất nước" đánh giá tiêu điểm vụ 11/9 như thế nào. Kết quả chương trình "Tiêu điểm phỏng vấn" hôm ấy có nội dung là nói về việc các chi bộ ở nông thôn tăng cường xây dựng chi bộ gì gì đó. Bạn muốn xem cái gì thì không có cái ấy. Cái bạn không muốn nghe thì người ta cứ nói cho mà nghe. Dĩ nhiên, những cái miệng lưỡi của quốc gia thì vô tội.

Văn hoá truyền thống ảnh hưởng tới quan niệm đạo đức

Năm 1999 Mỹ tấn công Nam Tư. Trung Quốc đứng ra phản đối. Cái giá của lần ấy là Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị bắn phá. Suýt nữa thì Trung Quốc lại đứng ra lần nữa. Đoàn tàu văn hoá này của chúng ta có quán tính lớn, chở chúng ta, những kẻ có khiếm khuyết đạo đức, phóng như bay tới điểm chót.

Hồi ấy có người còn đề xuất nhân dịp này tấn công Đài Loan, ra tay một lần là xong. Có thể thông cảm với nỗi lòng của các bạn ấy, nhưng bấy giờ quả thật không phải là thời cơ thích hợp. Hồi ấy tôi nghĩ, vụ 11/9 chết bao nhiêu người, đều là người vô tội. Cái mất đi là sinh mạng con người, thứ tôn nghiêm nhất trên thế giới. Những sinh mạng ấy không có liên quan với chính phủ Mỹ. Chúng ta dùng thái độ như vậy đối xử với người ta, nhưng người ta không dùng thái độ như vậy đối xử với ta.

Thảm án Dover hình thành sự đối chiếu rõ rệt với việc này. Năm 2000, một đoàn người Phúc Kiến vượt biên trái phép ngồi trong xe thùng bịt kín cập cảng Dover lên đất Anh Quốc. Vì ngồi mấy chục giờ trong thùng xe thiếu không khí, tất cả đều chết ngạt [2], chỉ có 2 người sống sót.

Khi vụ này bị phanh phui, không một quan chức nào của Đại sứ quán Trung Quốc xuất đầu lộ diện. Cuối cùng dân chúng Anh Quốc vùng Dover tự phát làm lễ truy điệu và lễ thắp nến tưởng niệm những người đã chết.

Rất nhiều trẻ em tham dự, chúng cầm trong tay những thứ đồ chơi chế tạo tại Trung Quốc. Nhân đây xin nói thêm, hiện nay 90% đồ chơi trên thế giới là Made in China. Nhà báo hỏi lũ trẻ: Tại sao các cháu dự lễ truy điệu? Bọn trẻ nói: Họ cũng là người cả mà; các thứ đồ chơi trong tay chúng cháu cầm đây có thể là do những người trong số họ sản xuất.

Không một người Trung Quốc nào có mặt trong buổi lễ truy điệu ấy. Thế nào là văn minh, thế nào là không văn minh? Tôi đang suy nghĩ.

Thờ ơ, coi nhẹ sinh mạng con người thật đáng sợ

Thật là đáng sợ khi người ta ca ngợi khủng bố. Trung Quốc thoát thai từ nền văn hoá giáo dục Trung Quốc, trước hết thờ ơ coi khinh sinh mạng của chính mình, từ đó mới có thái độ coi tính mạng của người khác, nước khác như trò trẻ con. Bản thân không có quyền lực quý trọng sinh mạng mình, cũng không cho người khác có cái quyền ấy. Tâm trạng "khán giả" năm xưa từng bị Lỗ Tấn hồi trẻ phê phán chính là được tôi luyện như vậy đấy.


Nhà văn Lỗ Tấn
Người Trung Quốc xem cảnh giết người khác, không ai không vui mừng phấn khởi. Giai cấp thống trị cố ý đem người ta ra giết tại nơi đông người. Kẻ bị thống trị thì hưởng thụ tại nơi đông người cái cảm giác khoái trá của kẻ thống trị. Nhất là khi xử tử bằng kiểu tùng xẻo, kéo dài ba ngày, người xem đông nghìn nghịt. Cả đến những chủ sạp hàng nhỏ cũng bày hàng ra bán tại đấy. Đao phủ còn bán bánh màn thầu dính máu.
Trung Quốc ngày nay không có tục tùng xẻo nữa. Nhưng xử án tại nơi đông người cũng là sự mở rộng tập quán đó. Người nước ta năm nào đi xem giết Lục Quân Tử Đàm Tự Đồng [3] như đi trẩy hội. Với những người như thế, trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ [4] ta sao mà không mất Đài Loan. Con cháu họ, tức chúng ta, nếu lại như họ thì làm sao mà giải phóng được Đài Loan.

Khi có kẻ xấu hành hung trên xe buýt, những người đi xe đều im thin thít. Dựa vào những con người ấy đi giải phóng Đài Loan ư? Dựa vào họ để thực hiện 4 hiện đại hoá ư? Bạn thực hiện 4 hiện đại hoá rồi thì có lợi gì nhỉ?

Sáng nay khi tập thể dục tôi tranh thủ xem truyền hình, chương trình quảng cáo "Tin tức buổi sáng", sản phẩm nào bán chạy nhất? Đó là cửa chống trộm. Đây là nỗi buồn của một dân tộc. Bạn xem đấy, nhà chúng ta ở chẳng khác gì cái cũi. Tại Thành Đô, tôi ở căn nhà mấy vị chính uỷ không quân tiền nhiệm từng ở. Tôi vào xem, ôi chao, như vào nhà giam ấy. Cửa sổ, ban công đều bao bọc bằng hàng rào chấn song chống trộm. Tôi bảo dỡ bỏ hết.

Hôm nọ đọc một cuốn sách có tên "Trung Quốc có thể nói Không". Tôi bảo, anh có thể nói Không, nhưng anh đứng sau cánh cửa chống trộm mà nói Không; đó chẳng phải là dũng sĩ mà là kẻ hèn nhát. Kiều Lương [5] nói chí lý: [Đó là] "Những người yêu nước khi gặp bọn trộm cướp mà còn lánh mặt nhưng lại dũng cảm dõng dạc nói Không với một cường quốc ở xa tít mù!"

Cần nhìn nhận nước Mỹ một cách khách quan toàn diện. Nước Mỹ là một quốc gia như thế nào? Nhớ lại hồi trẻ từng nghe một câu nói hình dung thành phố New York: Cái tốt nhất trên thế giới và cái xấu nhất trên thế giới cộng lại với nhau thì là New York. Dùng câu ấy để hình dung nước Mỹ ngày nay có thích hợp hay không?

Thế hệ quân nhân chúng ta, những quân nhân đảm nhận niềm hy vọng tương lai của tổ quốc, vừa không nên làm "phái thân Mỹ", cũng chẳng thể làm "phái chống Mỹ" một cách đơn giản, mà nên làm "phái hiểu Mỹ" chín chắn.

Hiểu kẻ địch thì mới chiến thắng được kẻ địch. Đánh giá thấp đối thủ tức là đánh giá thấp chính mình. Thác Bạt Đạo [6] đổi tên nước của Nhu Nhiên thành "Nhu Nhu", ý là sâu bọ, nhưng chính ông lại bị con sâu ấy đánh bại. Thế thì ông chẳng bằng con sâu nữa kia.

Mỹ không muốn Trung Quốc hùng mạnh, hoàn toàn cũng như Trung Quốc không muốn Mỹ xưng bá. Mối quan hệ Trung Quốc- Mỹ có xung đột nhưng cũng có lợi ích chung nhất định. Làm thế nào hoá giải xung đột, phát triển lợi ích chung là việc các nhà ngoại giao Trung Quốc hiện nay nên cố gắng làm.

Trung Quốc muốn phát triển thì không thể cắt đứt sự đi lại với thế giới. Thế giới hiện nay là đơn cực, chỉ khi nào Mỹ suy sụp thì mới có thể xuất hiện thế giới đa cực. Chúng ta vừa không thể cắt quan hệ với Mỹ lại vừa không thể có quá nhiều kỳ vọng về Mỹ. Hiện nay mà đối kháng với Mỹ thì chưa phải là thời cơ thích hợp nhất. Lợi ích quốc gia nên mãi mãi là chuẩn tắc cao nhất cho hành động của chúng ta. Chúng ta cần nhẫn nại; nhẫn nại không phải là mềm yếu, chỉ có khuất phục mới là mềm yếu.

Đấu tranh ngoại giao càng cần đấu trí

Dĩ nhiên Mỹ không từ bỏ dã tâm diệt chủ nghĩa xã hội. Dĩ nhiên Mỹ không muốn Trung Quốc trỗi dậy, không muốn kinh tế Trung Quốc phát triển đi lên. Nhưng cần nhớ cho kỹ: Khi đấu tranh với đối thủ, nhất định phải làm cho đối thủ của anh nhìn thấy cái tình hình họ không muốn thấy nhất.

Người Mỹ muốn người Trung Quốc đánh nội chiến; chúng ta quả thật đánh nội chiến rồi. Họ không rúc trong chăn mà cười đến nôn ruột thì mới lạ chứ. Dĩ nhiên nhất mực "Nằm gai nếm mật, thao quang dưỡng hối [vờ ngu giả dại/ giấu tài - ND]" cũng không được.

Là một nước lớn, Trung Quốc có thể làm theo cách như một võ hiệp thời xưa ẩn vào núi sâu khổ luyện võ công, chờ khi võ nghệ cao cường rồi tái xuất quyết thắng kẻ địch chăng? Với số dân và tài nguyên của Trung Quốc, đặc biệt là với nền văn hoá của mình, Trung Quốc không thể lớn mạnh như nước Mỹ được, huống chi Mỹ cũng chẳng dừng lại không tiến lên.

Vẫn là Mao Trạch Đông nói chí lý: "Đánh vẫn cứ phải đánh, đàm [đàm phán - ND] vẫn cứ phải đàm, hoà vẫn cứ phải hoà." Con người cần khôn ngoan tài trí, đấu tranh ngoại giao lại càng cần khôn ngoan. Phải dắt mũi người ta mà đi chứ đừng bị người ta dắt.

Khơ-rut-xôp là một tay khôn ngoan. Tôi xin kể cho các bạn nghe chuyện này: Tại một đại hội nọ [ý nói Đại hội XX đảng Cộng sản Liên Xô - ND], Khơ-rut-xôp ra sức vạch trần và phê phán chế độ chính trị tàn bạo của Stalin. Có người chuyển lên một mẩu giấy chất vấn Khơ-rut-xôp: Bản thân Khơ-rut-xôp cũng là một thành viên trong tập đoàn quyền lực nòng cốt khi Stalin nắm chính quyền.

Vì sao hồi ấy ông không đứng lên chống lại sự độc đoán của Stalin? Khơ-rut-xôp cao giọng đọc nội dung mẩu giấy kia rồi lớn tiếng nói với mọi người: Đây là mẩu giấy của ai thế? Xin người đó đứng ra! Đứng ra nào! ... Bên dưới nhốn nháo một lúc nhưng chẳng thấy ai đứng ra cả.

Khơ-rut-xôp nói: Mọi người xem đấy, chúng ta hiện nay dân chủ như thế này, trong tình hình chẳng có gì phải sợ hãi mà ngay cả đồng chí viết mẩu giấy này cũng không dám đứng ra. Vậy hãy nghĩ xem, trong bầu không khí dưới thời Stalin thống trị ấy có người nào dám đứng ra cãi lại Stalin không? Cả hội trường vỗ tay.

Chúng ta đấu tranh với Mỹ nên có sự khôn ngoan ấy của Khơ-rut-xôp. Khi cần thao quang dưỡng hối thì thao quang dưỡng hối đến tận nhà. Như một câu đồng chí Đặng Tiểu Bình năm nào nói với Thủ tướng Canada Trudeau (đại ý): Cái Thao quang dưỡng hối chúng tôi nói bao gồm cả việc không cần giữ thể diện cũng nhất định phải giữ mối quan hệ với quốc gia phát triển nhất trên thế giới. Ý của đồng chí Đặng Tiểu Bình là Trung Quốc nhất định phải bước cùng nhịp với văn minh thế giới, không thể xa rời nền văn minh thế giới.

Không có lý do căm ghét Mỹ

Trong sự kiện 11/9, trừ một số quốc gia cá biệt, một bộ phận dân chúng Trung Quốc (chứ không phải là chính phủ) đã tỏ ra mình ở cách nền văn minh dòng chính của thế giới một khoảng cách xa nhất.

Khi cần đấu tranh thì một tấc cũng không nhường. "Sùng bái Mỹ" là không đúng, "Thân Mỹ" không đúng, "Ghét Mỹ" cũng không đúng. Chính phủ và chính khách Mỹ vừa giống dân chúng Mỹ lại vừa không giống. Bạn cần phải có trí tuệ cao để phân biệt họ.

Trong quá khứ, vì để giúp Trung Quốc thoát khỏi ách thống trị thực dân mà Mỹ đánh bại Nhật, họ có cống hiến lớn đối với tiến bộ văn minh của xã hội Trung Quốc. Hai nước Trung Quốc- Mỹ không có xung đột lợi ích căn bản. Ngày nay, do lợi ích của Mỹ rải khắp toàn cầu nên 2 nước có xung đột. Nhưng chúng ta vẫn phải dùng tấm lòng đạo đức để bình xét sự vật chứ không thể kích động. Tôi từng nói rằng đối với Nhật, một nước từng tàn sát mấy chục triệu đồng bào ta, mà chúng ta thường xuyên nói 2 nước "phải đời đời kiếp kiếp hữu hảo với nhau". Thế thì chúng ta có lý do nào để căm ghét nhân dân Mỹ từng giúp ta đánh bại Nhật?

Những cái đáng sợ của Mỹ

Đâu là chỗ thực sự đáng sợ của nước Mỹ? Tuy rằng Mỹ có quân đội mạnh nhất thế giới, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới, nhưng tôi cho rằng những cái đó không đáng sợ. Nghe nói máy bay tàng hình của Mỹ thường xuyên ra vào bầu trời Trung Quốc rất thoải mái, nhưng điều ấy chẳng có gì đáng sợ cả. Cái đáng sợ của họ không phải là những thứ ấy.

Năm 1972, tôi học ở Đại học Vũ Hán, lên lớp giờ chính trị. Một thầy giáo khoa chính trị nói: "Nước Mỹ là đại diện của các nước tư bản mục nát, suy tàn, đã sắp xuống mồ, hết hơi rồi." Tôi, một sinh viên công nông binh mặc bộ quân phục, đứng ngay lên phản bác: "Thưa thày, em cảm thấy thầy nói không đúng ạ. Tuy rằng nước Mỹ không giống Trung Quốc là mặt trời nhô lên lúc 8- 9 giờ sáng, nhưng Mỹ cũng chẳng phải là mặt trời đang lặn gì gì đó, mà là mặt trời lúc giữa trưa ạ."

Thầy giáo bực mình, tái mét mặt ấp úng nói: "Cái cậu học sinh này, sao dám nói thế hả!" Ông ấy không hỏi tôi tại sao lại nói thế, mà dùng một chữ "dám". Lúc đó tôi thấy hết tâm trạng của ông.

Chính là cái nước tư bản mục ruỗng suy tàn ấy vào thập niên 90 thế kỷ trước đã lãnh đạo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới nhất trên thế giới. Tôi tốt nghiệp đại học đúng vào lúc bắt đầu cải cách mở cửa. Tôi lại có một quan điểm: Nước Mỹ là quốc gia do hàng chục triệu con người không yêu tổ quốc mình hợp thành, nhưng họ đều rất yêu nước Mỹ. Hồi ấy rất nhiều người lãnh đạo vừa chửi Mỹ vừa gửi con cái mình sang Mỹ. Một sự tương phản lớn!

Nói một thôi một hồi rồi, vậy thì cái đáng sợ của Mỹ là ở đâu? Tôi cảm thấy có ba điểm.

Điểm thứ nhất, không thể coi thường cơ chế tinh anh của Mỹ. Chế độ cán bộ, chế độ tranh cử của Mỹ có thể bảo đảm những người quyết sách đều là tinh anh. Bi kịch của Trung Quốc chúng ta, lớn đến nhà nước, nhỏ tới từng đơn vị, phần lớn tình hình là người có tư tưởng thì không quyết sách, người quyết sách thì không có tư tưởng. Có đầu óc thì không có cương vị, có cương vị thì không có đầu óc.

Nước Mỹ ngược hẳn lại, cơ chế hình tháp của họ đưa được những người tinh anh lên. Nhờ thế, 1 là họ không mắc sai lầm; 2 là họ ít mắc sai lầm; 3 là mắc sai lầm thì có thể nhanh chóng sửa sai. Chúng ta thì mắc sai lầm, thường xuyên mắc sai lầm, mắc sai lầm rồi thì rất khó sửa sai.

Mỹ dùng một hòn đảo Đài Loan nhỏ xíu để kiềm chế Trung Quốc chẵn nửa thế kỷ. Nước cờ này họ đi thật linh hoạt, thật thần kỳ. Một Đài Loan làm thay đổi hẳn sinh thái chính trị quốc tế. Điều tôi lo ngại nhất là bộ khung chiến lược phát triển Trung Quốc trong thế kỷ mới sẽ vì vấn đề Đài Loan mà biến dạng. Ngày nay, đối với các dân tộc có thế mạnh thì tính quan trọng của lãnh thổ đã giảm nhiều, đã chuyển từ tìm kiếm lãnh thổ sang tìm kiếm thế mạnh của quốc gia.

Người Mỹ không có yêu cầu lãnh thổ đối với bất cứ quốc gia nào. Nước Mỹ không quan tâm lãnh thổ, toàn bộ những gì họ làm trong thế kỷ XX đều là để tạo thế. Tạo thế là gì? Ngoài sự lớn mạnh về kinh tế thì là lòng dân chứ còn gì nữa! Có lòng dân thì quốc gia có lực ngưng tụ, lãnh thổ mất rồi sẽ có thể lấy lại. Không có lòng dân thì khẳng định đất đai anh sở hữu sẽ bị mất. Có nhà lãnh đạo quốc gia chỉ nhìn một bước. Nước Mỹ hành sự thường nhìn 10 bước. Vì thế cho nên mỗi sự kiện lớn toàn cầu xảy ra sau ngày Thế chiến II chấm dứt đều góp phần làm tăng cường địa vị nước Mỹ. Nếu chúng ta bị họ dắt mũi thì có thể sẽ mất hết mọi con bài chiến lược.

Tôi nhiều lần nói là trung tâm chiến lược của Mỹ sẽ không chuyển sang châu Á đâu, song điều đó không có nghĩa là Mỹ không bao vây Trung Quốc. Rất nhiều bạn chỉ thấy Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, cũng như rất nhiều người chỉ thấy khoảng cách chênh lệch về KHKT và trang bị vũ khí giữa 2 nước mà chưa nhìn thấy sự mất cân đối nghiêm trọng hơn sự lạc hậu về trang bị trên mặt chiến lược lớn, nhất là trên tầng nấc ngoại giao.

Sau vụ 11/9, Mỹ nhanh chóng chiếm Afghanistan trong vòng 2 tháng, từ phía Tây bao vây Trung Quốc. Sức ép quân sự của Nhật, Đài Loan, Ấn Độ cũng chẳng bớt đi. Xem ra chúng ta giành được từ vụ 11/9 một số lợi ích trước mắt, song các lợi ích đó không quá 1- 2 năm có thể biến mất. Tôi cho rằng bao vây chiến lược đối với Trung Quốc là một kiểu khác, không phải là quân sự mà là siêu việt quân sự.

Bạn xem đấy, mấy năm gần đây các nước xung quanh Trung Quốc tới tấp thay đổi chế độ xã hội, biến thành cái gọi là quốc gia "dân chủ". Nga, Mông Cổ thay đổi rồi, Kazakhstan thay đổi rồi. Cộng thêm các nước trước đây như Hàn Quốc, Phillippines, Indonesia, lại cộng thêm vùng Đài Loan. Đối với Trung Quốc, sự đe doạ này còn ghê gớm hơn đe doạ quân sự. Đe doạ quân sự có thể là hiệu ứng ngắn hạn, còn việc bị cái gọi là các quốc gia "dân chủ" bao vây là hiệu ứng dài hạn.

Điểm thứ hai, sự độ lượng và khoan dung của nước Mỹ. Bạn nên sang châu Âu, sau đó sang Mỹ, bạn sẽ thấy một sự khác biệt lớn: Sáng sớm, các đường phố lớn ở châu Âu chẳng có người nào cả, còn tại Mỹ sáng sớm các phố lớn ngõ nhỏ đều có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày như thế. Tôi có một câu nói: Tập thể dục là một phẩm chất, tập thể dục đại diện cho một kiểu văn hoá khí thế hừng hực đi lên. Một quốc gia có sức sống hay không, chỉ cần xem có bao nhiêu người tập thể dục là biết.

Người Mỹ có thể lấy quốc kỳ làm quần lót để mặc. Hồi ở Mỹ tôi có mua một chiếc quần cộc cờ sao vạch. Tôi thường xuyên mặc chiếc quần ấy. Tôi mặc nó là để khinh miệt nó, là để trút giận, là một dạng trút sự bực bội và thoả mãn về tâm lý. Người Mỹ mặc nó là sự trêu chọc bỡn cợt, bản chất khác. Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ nước mình ngoài phố. Đới Húc [7] nói: Nếu một quốc gia có thể đốt cả quốc kỳ của mình thì anh còn có lý do nào đi đốt quốc gia ấy nữa?


Ông Lưu Á Châu
Điểm thứ ba, sức mạnh vĩ đại về tinh thần và đạo đức. Đây là điều đáng sợ nhất. Vụ 11/9 là một tai nạn. Khi tai hoạ ập đến, thể xác ngã xuống trước tiên, nhưng linh hồn vẫn đứng. Có dân tộc khi gặp tai nạn thể xác chưa ngã mà linh hồn đã đầu hàng.
Trong vụ 11/9 có xảy ra 3 sự việc đều có thể để chúng ta qua đó nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ. Việc thứ nhất, sau khi phần trên toà nhà Thương mại thế giới bị máy bay đâm vào, lửa cháy đùng đùng, tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Khi mọi người ở tầng trên qua cửa thoát hiểm chạy xuống phía dưới, tình hình không rối loạn lắm.

Người ta đi xuống, lính cứu hoả xông lên trên. Họ nhường lối đi cho nhau mà không đâm vào nhau. Khi thấy có đàn bà, trẻ con hoặc người mù tới, mọi người tự động nhường lối đi để họ đi trước. Thậm chí còn nhường đường cho cả một chú chó cảnh. Một dân tộc tinh thần không cứng cáp tới mức nhất định thì dứt khoát không thể có hành vi như vậy. Đứng trước cái chết vẫn bình tĩnh như không, e rằng không phải là thánh nhân thì cũng gần với thánh nhân.

Việc thứ hai, hôm sau ngày 11/9, cả thế giới biết vụ này do bọn khủng bố người A Rập gây ra. Rất nhiều cửa hàng, tiệm ăn của người A Rập bị những người Mỹ tức giận đập phá. Một số thương nhân người A Rập cũng bị tấn công. Vào lúc đó có khá nhiều người Mỹ tự phát tổ chức đến đứng gác trước các cửa hiệu, tiệm ăn của người A Rập hoặc đến các khu người A Rập ở để tuần tra nhằm ngăn chặn xảy ra bi kịch tiếp theo.

Đó là một tinh thần thế nào nhỉ. Chúng ta thì từ xưa đã có truyền thống trả thù. Thành Đô nơi tôi ở, ngày xưa Đặng Ngải [8] sau khi chiếm được Thành Đô, con trai của Bàng Đức [9] giết sạch giá trẻ gái trai gia đình Quan Vũ. Trả thù đẫm máu, lịch sử loang lổ vết máu không bao giờ hết.

Việc thứ ba, chiếc máy bay Boeing 767 bị rơi ở Pennsylvania vốn dĩ bị không tặc dùng để đâm vào Nhà Trắng. Sau đấy hành khách trên máy bay vật lộn với bọn khủng bố nên mới làm máy bay rơi. Vì lúc ấy họ đã biết tin toà nhà Thương mại thế giới và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào nên họ quyết định không thể không hành động, phải đấu tranh sống chết với bọn khủng bố.

Cho dù trong tình hình ấy họ còn làm một chuyện thế này: Quyết định biểu quyết thông qua có nên chiến đấu với bọn khủng bố hay không. Trong giờ phút quan hệ tới sự sống chết ấy, họ cũng không cưỡng chế ý chí của mình lên người khác. Sau khi toàn thể mọi người đồng ý, họ mới đánh bọn không tặc. Dân chủ là gì; đây tức là dân chủ. Ý tưởng dân chủ đã thấm vào sinh mạng của họ, vào trong máu, trong xương cốt. Một dân tộc như thế mà không hưng thịnh thì ai hưng thịnh. Một dân tộc như thế không thống trị thế giới thì ai có thể thống trị thế giới.

Nên tham khảo kinh nghiệm thành công của Mỹ

Tôi thường có ý nghĩ quái lạ như thế này: Những vũ khí đỉnh cao nhất, KHKT tối tân và lực lượng vũ trang mạnh nhất trên thế giới nếu nằm trong tay những người như thế là rất thích hợp. Bao giờ cũng hơn nằm trong tay người Nhật, người Libya, người Iraq chứ? Cho là nằm trong tay chúng ta thì chúng ta có thể làm gì, điều đó cũng chưa thể biết. Nước Mỹ, quốc gia này có rất nhiều kinh nghiệm thành công, đáng để chúng ta tham khảo học tập. Sau vụ 11/9, Mỹ không thành lập Uỷ ban 11/9, không lập Bộ Chỉ huy ứng phó tình trạng khẩn cấp gì gì đó.

Tôi cực lực phản đối những thứ không thực tế. Sau khi đến bộ đội không quân Thành Đô, tôi chủ trương hoặc không họp hoặc ít họp hành. Cuộc họp nào không thể không họp thì họp ngắn thôi. Đến nơi trước tiên tôi thay đổi việc học tập của các Uỷ viên thường vụ thành tự học.

Cầm văn kiện đọc thì học được cái gì kia chứ. Tôi đang đấu tranh với thế lực thói quen. Lực lượng cá nhân tôi có hạn nhưng tôi không thể không đấu tranh. Cho dù sứt đầu mẻ trán cũng không được nản chí. Chẳng hạn nói chung khi xuống thăm bộ đội, tôi đều không ăn cơm. Chỉ cần có thể về nhà trong ngày thì tôi đều mang theo lương khô chứ không ăn cơm bộ đội.

Khi ở bộ đội không quân Bắc Kinh tôi đến sư đoàn 33 cũng thế. Nếu không thể không ăn thì tôi chỉ ăn đơn giản. Tuy rằng nói uống một chén rượu chưa đủ làm đổ cờ đỏ, ăn một bữa cơm chưa thể mất giang sơn, nhưng nhiều lần quá, lãng phí quá, tích tiểu thành đại thì rất khó nói. Có người nói đánh Đài Loan chẳng cần dùng vũ khí mới gì cả, cứ cho mấy vị cán bộ lên đảo ấy ăn nhậu các thứ của họ 2- 3 năm thì bảo đảm ăn hết các thứ của họ.

Còn một chuyên tiếu lâm nữa nói về chuyện họp hành. Có ông cục trưởng ốm sắp chết đến nơi, chỉ có điều không trút được hơi thở cuối cùng. Bà vợ bảo con cháu đến đông đủ cả rồi, ông yên tâm lên đường đi. Không được, chưa chết được. Vợ lại nói, mọi chuyện đều thu xếp ổn thoả rồi, ông yên tâm lên đường đi. Không được, chưa chết được. Vợ bảo, tài sản nhà ta đã thu xếp xong xuôi cả rồi, ông cứ đi đi. Cũng chưa được đâu. Về sau, vẫn là tay thư ký tương đối hiểu ông ta bèn ghé tai cục trưởng nói: "Báo cáo cục trưởng, mọi người đến đủ cả rồi, ta họp thôi ạ." Lúc ấy cục trưởng mới hả lòng hả dạ nhắm mắt xuôi tay. Dĩ nhiên đây là chuyện bịa nhưng nó nói lên sự phản cảm, chán ghét của mọi người đối với thói quen ấy.

Sự kiện 11/9 là cơ hội của nước Mỹ, cũng là cơ hội của Trung Quốc. Làm không tốt thì Trung Quốc trở thành vật hy sinh lớn nhất của sự kiện đó. Vấn đề then chốt là anh nắm cơ hội thế nào, toàn thế giới đều đứng trước dịp xóc lại quân bài. Khi nghiên cứu nước Mỹ, chúng ta nên nắm được nội hàm thực sự của nó, không thể chỉ xem cái nhỏ mà phải xem cái lớn. Có một câu chí lý thế này: Hay bàn luận về khuyết điểm của người khác thì anh là kẻ đạo đức thấp kém. Hay bàn luận về khuyết điểm của nhân loại thì anh là một nhà tư tưởng.

....

Hôm nay lần đầu tiên gặp các cán bộ cấp tiểu đoàn trở lên của căn cứ Côn Minh, tôi đã nói chuyện nhiều thế này với thái độ vô cùng thẳng thắn và mạnh dạn. Đây là thành quả nghiên cứu của tôi, tôi chịu trách nhiệm về bài nói của mình.

Chỗ nào tôi nói đúng thì các đồng chí ghi nhớ. Chỗ nào nói sai thì các đồng chí nghe tai bên này, cho ra tai bên kia, tủm tỉm cười bỏ qua, chớ cho là chuyện gì cả. Mỗi người là một cá thể, mỗi cá thể đều tự do. Tôi không thể yêu cầu áp đặt tư tưởng của tôi cho các đồng chí, tôi lại càng không thể yêu cầu đem tư tưởng của các đồng chí thống nhất vào một tư tưởng nào đó. Chuyện đó không thể được, nhưng chúng ta lại cứ khăng khăng tìm kiếm khả năng ấy, đây là chuyện hão huyền, trên thực tế không làm nổi.

-------------------------

[1]: Tác giả đang là Chủ nhiệm chính trị bộ đội Không quân của Quân khu Bắc Kinh]

[2]: 60 người này lấy hộ chiếu sang Đông Âu rồi chui vào xe container chở bằng tàu biển từ Bỉ bí mật sang Anh, ngày 19/6 /2000, hải quan cảng Dover kiểm tra container phát hiện 58 người chết]

[3]: Đàm Tự Đồng: Nhà chính trị cuối đời Thanh, chủ trương duy tân, sau khi phong trào Duy tân Trung Quốc thất bại, ông bị xử tử cùng 5 người khác, 6 chí sĩ này được gọi là Lục Quân tử.

[4]: Chiến tranh Giáp Ngọ: Chiến tranh Trung Quốc- Nhật xảy ra năm Giáp Ngọ tức năm 1894. Kết quả Nhật thắng, Trung Quốc phải cắt đảo Đài Loan cho Nhật].

[5]: Thiếu tướng không quân, nhà văn Trung Quốc nổi tiếng

[6]: Tức Thế tổ Bắc Nguỵ, Thái Vũ hoàng đế, vị thống soái kỵ binh kiệt xuất thời Nam Bắc Triều. Dẫn quân diệt các nước Hạ, Bắc Yên,... thống nhất phương Bắc; diệt nước Hãn của Nhu Nhiên tại Mông Cổ

[7]: Đại tá không quân Trung Quốc, viết nhiều chuyên luận quân sự, chính trị

[8]: 197-264, tướng giỏi nước Nguỵ, năm 263 đánh Thục Hán, đầu tiên chiếm Thành Đô, là công thần diệt Thục của họ Tư Mã.

[9]: Bàng Đức là một viên tướng chủ chốt của Tào Tháo

Nguyễn Hải Hoành giới thiệu và lược dịch

Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2010

Quyền thế và đặc lợi

Tác giả: Phan Chánh Dưỡng

Bài đã được xuất bản trên Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

Gần đây chúng ta được nghe nhiều về một cụm từ khá mới là “nhóm lợi ích”. Trong một quốc gia thường tồn tại những cộng đồng dân cư chịu ảnh hưởng của lịch sử, địa lý, nghề nghiệp, văn hóa, lối sống xã hội… khác nhau nên có khả năng mưu sinh khác nhau. Do đó, khi ban hành luật lệ, Nhà nước phải luôn xem xét những điều khoản có thể làm thiệt hại quyền lợi của những cộng đồng được xem là “yếu thế” trong xã hội, từ đó có thêm những điều luật bảo vệ lợi ích của họ, thể hiện tính công bằng của một xã hội văn minh.

Sự xuất hiện của cụm từ "nhóm lợi ích" hiện nay lại rất khác với lợi ích nêu trên. Nó thật sự là sự cấu kết của các nhóm "quyền thế" khác nhau trong hai lĩnh vực chính trị và kinh tế nhằm tác động vào luật lệ và mệnh lệnh hành chính được ban hành từ bộ máy Nhà nước, từ đó các nhóm ấy mới hưởng được đặc lợi trong kinh tế và xã hội.

Chính sự xuất hiện của nhóm lợi ích này không những làm trầm trọng thêm sự thua thiệt của các cộng đồng yếu thế trong xã hội, thêm khoảng cách giữa giàu và nghèo, mà còn làm mất đi tính tích cực của nền kinh tế thị trường và khuếch đại tính tiêu cực của sự cạnh tranh không lành mạnh trong xã hội. Nguy hiểm hơn nữa là nhóm lợi ích sẽ lũng đoạn chủ trương chính sách quốc gia và hậu họa sẽ vô cùng lớn!

Quyền thế được sinh ra ngay từ khi có xã hội loài người. Nó là công cụ không thể thiếu được của những người lãnh đạo bất cứ cộng đồng, dân tộc hay quốc gia nào. Khi quyền thế được sử dụng một cách đúng đắn, phục vụ lợi ích lâu dài cho cộng đồng, để mọi thành viên trong cộng đồng đều được thừa hưởng phúc lợi xã hội như nhau thì quyền thế đó chính là lực gắn kết nội tại hữu cơ của mọi thành viên trong cộng đồng, giúp cho cộng đồng càng ngày càng phát triển. Nếu quyền thế đó bị sử dụng sai hay bị một nhóm ít người lũng đoạn để kiếm chác riêng tư, phục vụ chỉ cho một nhóm người nào đó thì nó sẽ gây ra thiệt hại quyền lợi cho các thành viên khác trong cộng đồng, phá vỡ sự gắn kết của cộng đồng.

Trong quá trình phát triển xã hội loài người, các bậc tiền bối đã cố gắng xây dựng một thể chế nhằm tránh căn bệnh chí tử của xã hội là quyền thế sinh ra đặc lợi. Quá trình phát triển của xã hội loài người trong hàng ngàn năm qua cũng là quá trình tìm kiếm mô hình sử dụng và phân bổ quyền thế sao cho có lợi cho sự phát triển cộng đồng nhất. Quyền thế có được trong một cộng đồng thường do sự nổi trội của cá nhân trong quá trình đấu tranh sinh tồn, trước thế lực của thiên nhiên và của các cộng đồng khác. Quyền thế phải đánh đổi bằng xương máu và người nắm được quyền là người được độc tôn sử dụng theo ý chí cũng như sự hiểu biết của riêng mình.

Nếu quyền thế đó bị sử dụng sai hay bị một nhóm ít người lũng đoạn để kiếm chác riêng tư, phục vụ chỉ cho một nhóm người nào đó thì nó sẽ gây ra thiệt hại quyền lợi cho các thành viên khác trong cộng đồng, phá vỡ sự gắn kết của cộng đồng.
Khi cộng đồng phát triển (tăng về dân số và lãnh thổ cũng được mở rộng, của cải vật chất nhiều hơn) thì bộ máy thực thi quyền thế được ra đời, gọi là bộ máy cầm quyền. Đến lúc bộ máy đó có quy mô lớn và phức tạp hơn, để việc điều hành bộ máy phản ánh đúng ý chí của người cầm quyền, các quy định và luật lệ ra đời. Luật lệ có tốt hay xấu đến mấy thì bản chất của nó cũng bắt nguồn từ ý chí của người cầm quyền. Chính vì thế, đã tồn tại mô hình nhân trị (người trị người) vì đó là mô hình lệ thuộc vào người lãnh đạo, người nắm quyền.
Dù có luật lệ rõ ràng, việc hành xử có theo đúng luật thì kết quả thực thi pháp luật không thuộc về ý chí của người dân. Tiếp nối mô hình nhân trị là mô hình pháp trị (người trị người qua luật). Khi đó, nếu người nắm quyền anh minh thì dân chúng, cộng đồng được nhờ, còn ngược lại thì dân cũng đành cam chịu. Mô hình đó kéo dài trong suốt thời đại nô lệ và thời đại phong kiến như sách vở đã ghi.

Thế giới đã từng bước từ bỏ mô hình nhân trị vì con người khi nắm được quyền thế thì rất dễ nảy sinh thiên vị cho người thân và giành lợi ích cho riêng mình, một người có "quyền" sẽ tạo nên cả trăm người xung quanh có "thế" và sự tư lợi, tham lam nảy nở. Do đó, một mô hình xã hội mới được ra đời. Đó là chế độ cộng hòa, người dân có được quyền "dân chủ tự do trong cuộc sống".

Trong thể chế mới đó, quyền lực tối cao của một cộng đồng là do mọi thành viên của cộng đồng đó góp vào, mục đích tồn tại của quyền lực là để bảo vệ lợi ích của cộng đồng. Nội dung sự bảo vệ lợi ích cộng đồng được thể hiện cụ thể bằng những điều luật và được mọi thành viên tôn trọng (như hiến pháp, hệ thống luật pháp quốc gia...).

Bộ máy quyền lực được xây dựng để thực thi những luật lệ nhằm bảo vệ lợi ích của cộng đồng, là công cụ của cộng đồng nhằm thực thi quyền lực trong cộng đồng. Những người lãnh đạo bộ máy quyền lực được các thành viên trong cộng đồng lựa chọn qua bầu cử. Họ thay mặt tất cả thành viên trong cộng đồng điều hành bộ máy theo luật định. Như vậy, quyền lực chỉ tồn tại thông qua sự vận hành của bộ máy theo quy định của luật pháp.

Có một yếu tố cần phải giải quyết là ai sẽ là người làm luật, ai sẽ là người đứng ra đại diện lợi ích cộng đồng và lợi ích của cá nhân để phán xét những điều đúng sai khi hành xử theo pháp luật. Mô hình tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp, tư pháp) vì thế đã ra đời. Người nắm một trong ba quyền thì không được "kiêm nhiệm" thêm vai trò trong hai quyền còn lại. Mô hình này còn được gọi là mô hình pháp trị, là cơ sở của nền dân chủ tự do.

Rõ ràng, mô hình pháp trị là tiến bộ hơn so với hai mô hình có trước đó. "Quyền" đã được phân tán và bị kiềm chế, nhưng "thế" thì vẫn khó giảm, vì "thế" rất vô hình, đến khi cần thì có thể chuyển thành "quyền" ngay để giúp những người thuộc "nhóm lợi ích" gặt hái đặc lợi một cách hợp pháp.

Vì vậy, ở nước ta, nơi mà một cơ chế dân chủ tự do còn non trẻ (chỉ mới hình thành được vài chục năm) thì đương nhiên còn nhiều khiếm khuyết và bất cập. Đó là chưa nói đến khía cạnh văn hóa, bởi trong xã hội còn mang nặng những yếu tố phong kiến của lịch sử thì việc hành xử quyền thế để lãnh đạo quốc gia không hề dễ dàng. Không có gì đáng ngạc nhiên khi đã xảy ra bao điều bất hợp lý trong việc phân bổ nguồn tài nguyên, nguồn vốn xã hội, từ đó tạo ra biết bao đặc quyền, đặc lợi cho những kẻ "dựa thế dựa quyền". Xem ra, con đường tạo dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh còn dài.

Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta không phấn đấu để đi nhanh hơn, vươn lên từng bước nhắm đến mục tiêu là xây dựng một xã hội dân chủ pháp quyền. Chúng ta sẽ vượt lên được chính mình nếu từng thành viên trong bộ máy quyền lực quốc gia, bao gồm hành pháp, lập pháp và tư pháp ở mọi cấp đều công khai, minh bạch. Khi đó, những đặc quyền đặc lợi, những "nhóm lợi ích" gây tiêu cực cho kinh tế - xã hội của đất nước sẽ bị giảm thiểu và cuộc sống của mọi người dân sẽ tốt đẹp hơn.

Bộ máy quản lý hành chính nhà nước của nước ta hiện nay gồm bốn cấp (phường/xã, quận/huyện, tỉnh/thành và Trung ương). Ngoài những tiêu cực thể hiện ở những nhóm có đặc quyền đặc lợi ra, còn có những tiêu cực tuy nhỏ hơn nhưng tác hại không nhỏ là làm mất nhân tâm, mất lòng tin của người dân đối với bộ máy hành chính ở các cấp.

Do cơ chế quản lý buộc chặt hoạt động kinh tế của người dân, của doanh nghiệp với quản lý hành chính lãnh thổ nên hệ thống quản lý kinh tế vừa bị trùng dụng vừa bị chia cắt (Trung ương có bộ nào thì tỉnh thành có sở tương ứng và cấp quận huyện có phòng quản lý nghiệp vụ tương ứng như cấp sở). Sự trùng dụng này làm cho bộ máy hành chính rất rườm rà, phải sử dụng một lượng cán bộ khổng lồ, tiêu phí ngân sách, nhưng tiền lương cấp cho cán bộ lại không đủ để họ đảm bảo cuộc sống. Đây là nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự tham nhũng và nhiễu nhương người dân (có vậy công chức mới có thêm thu nhập).

Hiện nay, có một thực tế không chối cãi là lương của khu vực cán bộ nhà nước thuộc loại thấp nhất, thế mà của cải, tài sản của xã hội lại tập trung vào khu vực này nhiều nhất. Điều đó chứng tỏ quyền thế tạo ra của cải, quyền thế trở thành công cụ đem lại giàu sang một cách nhanh nhất và ít rủi ro nhất.

Điều nguy hiểm hơn nữa là hiện tượng hưởng lợi thông qua con đường bất chính như nêu trên đã lan sang mọi lĩnh vực như một căn bệnh truyền nhiễm trong xã hội. Ngay ở công ty tư nhân, nhân viên mua hàng không chỉ ăn gian giá, người tài xế mua xăng cũng ăn gian xăng và nếu không ăn gian được thì phải tìm một nơi có thể ăn gian ăn chặn được mới mua. Từ đó, người bán hàng cạnh tranh bằng cách chi riêng hoa hồng để người mua đến mình mua hàng. Chiều hướng phát triển hiện nay là mọi người đều tìm cách đưa hối lộ để làm một việc gì đó cho yên tâm, nếu không việc sẽ chẳng thành!? Văn hóa xã hội của nước ta đã tụt dốc đến mức như vậy!

Hãy quyết tâm cải cách bộ máy hành chính, tách quản lý kinh tế ra khỏi bộ máy quản lý hành chính, thay đổi cách nhìn đối với người dân để giảm đi những điều luật ràng buộc dân, từ đó tinh giản bộ máy hành chính công quyền, giảm đi sự tiếp cận trực tiếp của người dân với cán bộ nhà nước theo hình thức xin - cho. Nên tăng lương cho cán bộ nhà nước để họ nuôi sống được gia đình ở mức trung lưu. Có như vậy, sự công khai, minh bạch của bộ máy công quyền mới thực hiện được. Người dân mới có thể có được một cuộc sống dân chủ, tự do, công bằng và văn minh như chúng ta mong chờ.

Sự thông minh và sự "chậm lớn" của người Việt

Tác giả: Kim Dung, bài đăng trên Vietnamnet

Cây cầu tre - tư duy và cơ chế quản lý xã hội tiểu nông bắc giữa hố sâu của 2 bờ "tụt hậu" hay "phát triển" cần được thay đổi, được đổi mới bằng cây cầu hiện đại- tư duy và quản lý xã hội gắn kết dân chủ, công bằng, văn minh và minh bạch.


Sau những giờ phút xúc động đến "nghẹn con tim", khi chứng kiến GS Ngô Bảo Châu được vinh danh trên trường quốc tế với Giải thưởng Fields danh giá, và được trong nước vinh danh thành "hiện tượng Ngô Bảo Châu", cũng như trước đây là "hiện tượng" Đặng Thái Sơn- nghệ sĩ biểu diễn piano, giải nhất cuộc thi quốc tế về Frédéric Chopin ở Warszawa (Ba Lan), thì tâm lý người Việt trong chúng ta bỗng chùng xuống, im lặng khi nghĩ về đất nước mình. Nghĩ về những tài năng Việt xa xứ. Đã đành, sự vinh danh vẻ vang GS Ngô Bảo Châu, một người Việt tài năng, thì dân tộc Việt sẽ là dân tộc được thế giới nhắc nhớ đầu tiên.

Nhưng sẽ có một câu hỏi khác, một sự nhắc nhớ khác, khiến chúng ta hổ thẹn. Tại sao người Việt ra thế giới, đi làm thuê cho xứ người, lại thường thành danh, thành đạt? Và tại sao, người Việt chúng ta thông minh thế, mang tiếng tài nguyên rừng vàng biển bạc thế, phải cho nước ngoài khai phá...mà đất nước vẫn luẩn quẩn với cái nghèo, chậm phát triển, nay lại còn tụt hậu so với khu vực?

Một chuyên gia người Việt của tổ chức Ngân hàng Thế giới từng đặt câu hỏi: "Ta cứ hay vin vào chiến tranh. Thế nhưng chiến tranh đã lùi xa sau 35 năm, tại sao đến giờ, thu nhập bình quân/ người Việt/ năm mới đạt 1.000 USD. Trong khi đó, các quốc gia như Đức, Nhật, Ba Lan, Tiệp Khắc bị tàn phá thảm hại sau chiến tranh thế giới thứ 2 nhưng sau 35 năm họ đã thành cường quốc kinh tế, thu nhập bình quân đạt trên 10.000 USD/ người/ năm".

Chiến tranh liệu có thể mãi là "bình phong" để cho ta che đậy sự kém cỏi? Điều gì là vật cản khiến tố chất thông minh của người Việt không "phát" lên được, không biến thành tài nguyên chất xám làm giàu cho nước Việt, thành vòng nguyệt quế kiêu hãnh trên vầng trán nước Việt, khi mà rất nhiều quốc gia tương tự như ta, đều đang ngẩng đầu tiến về phía trước?

"Người nọ ngoi lên, người kia kéo xuống"- ngụ ngôn hay cuộc đời?

Khi đặt câu hỏi này, người viết bài tự nhiên nhớ đến câu chuyện ngụ ngôn hiện đại: Có chiếc tàu đắm ngoài khơi xa, tàu cứu hộ được điều đến để cứu hành khách đang ngoi ngóp dưới biển. Người các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore...lần lượt được cứu thoát, bởi người nọ làm bệ đỡ cho người kia ngoi lên. Nhưng hành khách là người Việt Nam, cứ người nọ ngoi lên, thì lập tức bị đồng loại- người kia kéo xuống. Vì thế mà cuối cùng hành khách là người Việt Nam chết hết.

Câu chuyện triết lý bi thảm về tính cách một dân tộc thật chua xót. Nhưng chắc chắn, nó "ngụ ngôn" trên cơ sở có thật. Hay nó bước ra cuộc đời, từ "ngụ ngôn" để trở thành tính cách người Việt?

Không biết có phải vì quá thấm thía về câu chuyện ngụ ngôn, quá hiểu tính cách người Việt không, mà khi được đặt câu hỏi đề cập việc có chính sách quy hoạch bồi dưỡng cho những chuyên gia giỏi tuổi còn trẻ, một vị sếp cỡ Bộ trưởng lắc đầu quầy quậy: "Không được đâu chị ơi. Cứ "dàn hàng ngang cùng tiến" thì không sao. Chứ đụng vào chuyện quy hoạch, bồi dưỡng người nọ người kia là chết ngay!"

Chẳng biết ông có chịu để "chết" không, nhưng rõ ràng, cơ quan ông "chết" vì những người giỏi cũng chẳng thể bật được lên do chính sách cào bằng, "dàn hàng ngang mà tiến". Hòa cả làng! Và cho nó...lành!

Chắc chắn câu chuyện và tâm lý của vị Bộ trưởng trên không phải là cá biệt. Mà đó cũng mới là chuyện xây dựng đội ngũ chuyên gia, không phải quy hoạch đội ngũ quản lý.

Còn chuyện mới đây: Tại Hội nghị về chiến lược quản lý nhân sự do báo VNN và VN500 tổ chức, người ta nêu ra một vấn đề đáng chú ý. Nhiều công ty có tầm cỡ đang hoạt động trong nước ta cho biết, họ thường có vấn đề với nhân sự trung và cao cấp mà họ rất cần. Tại sao lại như vậy? Theo ông Trần Sĩ Chương, Chủ tịch HĐQT Công ty ABBO, trong tất cả các cái "thiếu" có lẽ cái thiếu "tinh thần đồng đội" là quan trọng hơn cả.

"Nhiều nhà quan sát lịch sử Việt Nam cho rằng đây là một nghịch lý đáng ngạc nhiên. Dân tộc Việt Nam khi cần đã chứng minh được một khả năng đoàn kết cao độ trong các cuộc kháng chiến giành độc lập cực kỳ khó khăn, gian khổ.

Vậy mà từ người Pháp trước đây, rồi người Mỹ và nhiều người ngoại quốc khác sau này khi có cơ hội làm việc, tiếp xúc với người Việt lại có nhận xét, "một cá nhân người Việt thì có thể hơn một người khác nhưng ba người Việt ngồi lại thì... lại có vấn đề!".

Cũng theo ông Trần Sĩ Chương, các nhà xã hội học dựa vào thuyết "Con người là sản phẩm của môi trường sống", hiện tượng này là do sự bất ổn định của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Khi sống trong một xã hội có truyền thống bất ổn định thì con người với bản chất sinh tồn bẩm sinh sẽ có khuynh hướng muốn hành động tự phát, thiếu lòng tin vào tập thể, vào tương lai.

Từ đó, người ta không muốn đầu tư vào những cam kết, đầu tư và gắn bó xã hội có tính lâu dài thậm chí có khi còn "đạp lên nhau để sống".

Tuy nhiên, ông Trần Sĩ Chương chưa nêu được cái gốc của tố chất này. Nền văn minh của nước Việt là văn minh lúa nước. Dân tộc Việt có tới 80% dân số làm nghề nông. Một nét đặc thù của tư duy nông nghiệp là tư duy tư hữu; là "con gà tức nhau tiếng gáy", "sân gạch nhà ông không thể cao hơn sân gạch nhà tôi"...

Chính tố chất "tư hữu đậm đặc" này tuy lặn sâu trong tiềm thức con người Việt, khó "điểm mặt chỉ tên", nhưng nó lại luôn kề vai sát cánh với mỗi người Việt cho dù họ đã là trí thức, từ cơ quan nghiên cứu đến công sở...và nó là "người tình" trăm năm thủ thỉ, gắn bó với ta khi ta cộng tác, làm việc với đồng nghiệp, bằng hữu. Bỗng nhớ tới một câu "ngụ ngôn" khác sâu cay không kém: "Trong cái sự mất đoàn kết, thì trí thức là hay mất đoàn kết nhất, rồi mới đến...đàn bà"(!).

"Gieo tư duy gặt số phận"?

Tính cách người Việt ấy, lại được đặt trong một cơ chế và tư duy quản lý ra sao?

Khi bàn về sự lận đận, yếu kém và sự tụt hậu của xã hội chúng ta trong những năm tháng thách thức nghiệt ngã này, có nhà thơ đã nói: Hình như con người có số phận, thì dân tộc cũng có số phận?

Bỗng nhớ tới câu chiêm nghiệm về luật nhân- quả của đạo Phật, răn dạy con người ở kiếp nhân sinh: "Gieo tính cách, gặt số phận". Nhưng luật Đời cũng luôn cảnh báo cho bất cứ dân tộc nào- gieo tư duy gặt số phận?

Tư duy của dân tộc Việt chúng ta đã từng đổi mới để thích ứng với đòi hỏi của thời hiện đại, từ bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Nhưng công bằng mà nói, tư duy đó thực chất vẫn không thoát khỏi dấu ấn tiểu nông, gia trưởng. Trong tố chất "tính cộng đồng" còn tồn tại cả tố chất "bầy đàn", hình thành nên trên hình thái lao động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công, không vượt khỏi tầm chắn của lũy tre làng.

Chính tư duy "bầy đàn" và trọng hư danh của con người tiểu nông, khi có quyền lực, dễ trở nên e ngại, phòng ngừa với những người có tư duy độc lập khác với số đông. Thời nào, và dân tộc nào cũng vậy, luôn có những con người thông minh, trí tuệ, luôn có những con người biết nhìn ra sớm hơn cộng đồng mình, dám nhận thức bằng sự kiểm chứng thực tiễn. Nhưng tư duy tiểu nông khi cực đoan, dễ nghi ngờ, hoặc đánh đồng sự "khác biệt" của người tài là sự đối trọng, thậm chí đối nghịch.
Cơ chế quản lý xã hội, một khi được xây nên từ tư duy tiểu nông ấy, tạo nên một hệ thống chân rết cũng sẽ khó chấp nhận những cá tính sáng tạo, mà chỉ thích sự 'cào bằng" và sự nghe lời. Khi ấy thì sự thông minh, năng lực sáng tạo, và niềm tin lý tưởng chân lý là thực tiễn, rất có thể trở thành bi kịch cho chính người tài, nếu không, chí ít anh ta cũng trở nên hoặc đơn độc, hoặc bị vô hiệu hóa trong cộng đồng.

Tư duy và cơ chế quản lý "cào bằng" ấy tạo ra sự bất công với những người tài, chỉ gặt hái được sự a dua cơ hội của sự háo danh, sự vô cảm của số đông và làm thui chột tài năng sáng tạo thực chất. Đó chính là nguyên nhân sâu xa, tạo ra "hố sâu" ngăn cách giữa hai bờ tụt hậu và phát triển. Một dân tộc có nhiều người thông minh như dân tộc Việt, vẫn có thể là dân tộc "chậm lớn" vì thế.

Liệu dân tộc Việt chúng ta có vượt lên được chính mình không?

Nhìn ra thế giới, ông Trần Sĩ Chương cho rằng, mặc dù cá nhân người dân Nhật không được tiếng học giỏi, lanh lợi như người Ấn, người Hoa hay so với người Việt chúng ta...nhưng theo ông Chương, điều kiện "công bằng trong xã hội" là một yếu tố quyết định để mọi cá nhân có lòng tin sự đóng góp của mình được ghi nhận một cách sòng phẳng, được đền bù xứng đáng về mặt vật chất lẫn tinh thần.

"Từ đó, con người mới tin vào ý nghĩa của sự đoàn kết, đem lại cái tổng giá trị lớn hơn từng giá trị của cá nhân đứng riêng lẻ cộng lại và cá nhân họ "được" nhiều hơn là nếu chỉ nghĩ đến mình. Con người bất cứ ở đâu, nếu sống trong một điều kiện xã hội còn nhiều bất công thì sẽ khó sống trung thực. Từ đó sự tự trọng, tương kính cũng sẽ không có.

Trong xã hội Mỹ, cá nhân chủ nghĩa, tinh thần cầu lợi có lẽ cao hơn bất cứ xã hội nào khác. Nhưng họ may mắn có được một cơ chế xã hội mà đa số người ta tin là công bằng. Câu phản biện đầu môi, hữu hiệu nhất của một người Mỹ (ngay cả những đứa trẻ con) đối với người khác khi tranh luận một vấn đề là vịn vào cái lý lẽ "That's not fair!" (Thế là không công bằng đâu nhé!)"(VNR500,12/8/2010)

Như vậy, tư duy và cơ chế quản lý xã hội hay hoặc dở, hoàn thiện hay khiếm khuyết, tất yếu dẫn đến hoặc kết quả hoặc hệ lụy khác nhau căn cứ vào việc sử dụng người, đặc biệt là những người tài. Mà đối với những người tài, nhất là các nhà khoa học, trí thức lớn, không chỉ đồng lương, quan trọng hơn là được tự do học thuật, tự do sáng tạo. Việc sử dụng những người tài, đòi hỏi những nhà quản lý có tầm, có tâm, biết tôn trọng lao động sáng tạo và..."không sợ họ".

Cơ chế quản lý xã hội nặng tính cào bằng, thậm chí các thang bậc giá trị trắng đen lẫn lộn, sớm muộn cũng gây ra những bất công, làm ly tán lòng người. Nhiều người tài, cũng từ sự bất công đó mà ra đi. Sự suy yếu, tụt hậu của dân tộc là không tránh khỏi

Cơ chế quản lý xã hội công bằng, là động lực kích thích mọi người làm việc, khiến người tài tin tưởng, dốc lòng cống hiến. Không gọi, dù xa xứ, sớm muộn họ cũng sẽ quay về. Sự phát triển của dân tộc là tất yếu.

Không ai có thể quyết định số phận dân tộc Việt bằng chính người Việt. Cây cầu tre- tư duy và cơ chế quản lý xã hội tiểu nông bắc giữa hố sâu của 2 bờ "tụt hậu" hay "phát triển" cần được thay đổi, được đổi mới bằng cây cầu hiện đại- tư duy và quản lý xã hội gắn kết dân chủ, công bằng, văn minh và minh bạch.

Khi đó mới có thể kỳ vọng, sự thông minh song hành với sự lớn nhanh của người Việt, cũng tức là song hành với sự phát triển mạnh của dân tộc.

Xin đừng để sự "chậm lớn" của người Việt cũng thành một "hiện tượng", nhưng là "hiện tượng" buồn!

Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2010

Tranh chấp ở châu Á củng cố vị thế của Mỹ

Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - ASEAN, cũng như sự tham gia của Mỹ trong một loạt vấn đề nóng ở Đông Á thời gian qua cho thấy nước này đang trở lại khu vực, bài phân tích dưới đây của The New York Times cho thấy.

Trong nhiều năm qua, một trong những câu chuyện được nói đến nhiều nhất ở châu Á là khi Trung Quốc trỗi dậy, các nước láng giềng của họ sẽ bị cuốn vào quỹ đạo của nó và ngả vào vòng tay của một siêu cường mới. Và trong một kịch bản như thế, người mất mát chính là Mỹ, quốc gia đang dồn cả tiền bạc cũng như ảnh hưởng của mình vào các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan; nền kinh tế gặp khó khăn và đang mất dần chỗ đứng ở châu Á.

Tuy nhiên, tình trạng căng thẳng và tranh chấp ngày càng rõ rệt giữa Trung Quốc với các nước láng giềng trong thời gian gần đây đã cho Mỹ một cơ hội để giành lại vị trí trong khu vực - một cơ hội mà chính quyền của Tổng thống Obama mong chờ tận dụng.

Một người Hong Kong, Trung Quốc, trên con tàu định tiến ra khu vực đảo tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản, trong lúc cẳng thẳng giữa hai nước đang lên cao. Ảnh: AFP.

Washington đã nhắc đến tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á trên Biển Đông, bất chấp quan điểm của Bắc Kinh cho rằng đây là vấn đề nội bộ. Mỹ cùng với Hàn Quốc đã tiến hành những cuộc tập trận nhằm giúp Seoul đáp trả những lời đe dọa từ Bình Nhưỡng. Trung Quốc phản đối những cuộc tập trận này, và nói rằng các hoạt động diễn tập xâm phạm vào vùng nước mà quân đội Trung Quốc hoạt động.

Trong khi đó, căng thẳng ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong vụ tàu cá Trung Quốc bị Nhật bắt giữ đang đẩy Tokyo trở lại gần hơn với người đồng minh lâu năm bên kia bán cầu.

Bối cảnh này được phản ánh trong dịp hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo thế giới đang diễn ra ở Mỹ. Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã từ chối một cuộc gặp với người đồng nhiệm Nhật là Naoto Kan. Ông Ôn còn đe dọa sẽ "có hành động tiếp theo" nếu Tokyo không thả thuyền trưởng tàu đánh cá "ngay lập tức và vô điều kiện".

Hôm nay, Tổng thống Mỹ Obama sẽ gặp các nhà lãnh đạo Đông Nam Á và có thể Mỹ sẽ cam kết giúp họ giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình.

"Mỹ thật là khôn", Carlyle A. Thayer, giáo sư Học viện Quốc phòng Australia chuyên nghiên cứu về an ninh châu Á, bình luận. "Họ khôn khi chìa tay với các nước trong khu vực này".

"Ở khắp nơi nơi, Trung Quốc có thể nhận thấy rằng bầu không khí đang thay đổi mạnh mẽ", Thayer nói thêm.

Khẳng định chủ quyền lãnh thổ - ở khắp nơi từ Tây Tạng đến Đài Loan và Biển Đông - vốn từ lâu là ưu tiên hàng đầu của những người theo đường lối dân tộc ở Trung Quốc. Tuy nhiên điều này gây khó khăn cho những nỗ lực của Bắc Kinh trong việc khẳng định sự trỗi dậy hòa bình, và có thể tạo nên sự xa cách với các nước láng giềng.

Một bằng chứng rõ ràng của tình trạng này là sự căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Nhật Bản và Trung Quốc trong vụ va chạm giữa tàu đánh cá và tàu tuần tra đôi bên. Sự vụ xảy ra tại khu vực tranh chấp gần một số đảo mang tên Senkaku trong tiếng Nhật và Điếu Ngư trong tiếng Trung. Các đảo này là đối tượng tuyên bố chủ quyền của cả Bắc Kinh lẫn Tokyo.

Tranh chấp này, cũng như sự việc trực thăng Trung Quốc lượn phía trên tàu khu trục Nhật hồi tháng 4, có thể giúp cho liên minh quân sự Nhật - Mỹ thêm vững chắc. Các nhà phân tích cho rằng những vụ đối đầu như thế có thể sẽ nhắc nhở các quan chức Nhật Bản - vốn từng chủ trương đưa chính sách đối ngoại của họ nghiêng thêm về phía Bắc Kinh - rằng họ vẫn cần dựa vào Mỹ để có được thế cân bằng.


Một người Nhật Bản leo lên sửa ngọn hải đăng trên đảo mà nước này gọi là Senkaku (Trung Quốc gọi Điếu Ngư) như một hành động biểu tượng để khẳng định chủ quyền. Ảnh chụp năm 1996, AFP.

"Nhật Bản sẽ không có cách nào khác là tiến sâu hơn nữa vào trong vòng tay của Mỹ, củng cố hơn nữa quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ và sức mạnh quân sự của bản thân", Huang Jing, một học giả nghiên cứu về quân sự Trung Quốc, công tác tại Đại học Quốc gia Singapore, bình luận.

Hồi tháng 7, tại diễn đàn an ninh khu vực ASEAN, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nhắc đến vấn đề Biển Đông, bà nói rằng Mỹ sẵn sàng giúp để tìm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp trên Biển Đông, nơi được cho là dồi dào tài nguyên dầu, khí và hải sản. Phía Trung Quốc chủ trương giải quyết vấn đề với từng nước riêng rẽ, nhưng bà Clinton mong muốn có những cuộc đối thoại đa phương. Tự do hàng hải ở Biển Đông là vấn đề mà Mỹ quan tâm, Clinton nói.

Hôm nay Tổng thống Obama có cuộc gặp với các nhà lãnh đạo của 10 nước ASEAN. Hãng thông tấn AP cho hay, theo một dự thảo tuyên bố chung mà họ có được, các bên sẽ phản đối "việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực của bất kỳ bên nào nhằm khẳng định tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông".

Đầu tuần này, phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc Khương Du lên tiếng chỉ trích bất kỳ nỗ lực làm trung gian nào của Mỹ. "Chúng tôi phản đối việc một nước không có gì liên quan đến biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) can dự vào tranh chấp ở đây", bà Khương nói.

Bắc Kinh cũng phản đối các kế hoạch tập trận của Mỹ và Hàn Quốc ở Hoàng Hải, nơi Trung Quốc tuyên bố là khu vực đặc quyền quân sự. Tuy nhiên giới phân tích cho rằng sự phản đối này càng khiến Hàn Quốc ngả thêm về phía Mỹ.

Giới chức Mỹ ngày càng quan tâm đến tiến trình hiện đại hóa, cũng như khả năng vươn xa bờ và thái độ ngày càng tự tin hơn của hải quân của Trung Quốc. Hồi tháng 3, một quan chức Trung Quốc nói với các quan chức Nhà Trắng rằng Biển Đông là một phần trong "lợi ích cốt lõi" của chủ quyền quốc gia, ngang với Tây Tạng và Đài Loan.

Một số sĩ quan quân đội và nhà phân tích Trung Quốc cho rằng Mỹ đang muốn ngăn cản họ. Hồi tháng 8, một phó đô đốc của Trung Quốc viết trên nhật báo của quân đội nước này rằng, một mặt Washington "muốn Trung Quốc thực hiện vai trò trong các vấn đề an ninh khu vực". "Mặt khác", ông này viết tiếp, "lại đang ngày càng xiết chặt vòng vây quanh Trung Quốc và liên tục thách thức các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc".

Một số nước châu Á đã cảm thấy muốn ngả về phía Mỹ nhiều hơn. Hồi tháng 4, vụ việc trực thăng Trung Quốc lượn phía trên khu trục hạm Nhật khiến nhiều người Nhật Bản lo lắng, nhất là khi thủ tướng lúc đó là Yukio Hatoyama đang khiến Mỹ tức giận vì thái độ quyết tâm di dời căn cứ không quân của Mỹ ở Okinawa.

Thủ tướng kế nhiệm, ông Naoto Kan, đã tìm cách xoa dịu và thắt chặt hơn các mối quan hệ với Washington, nhấn mạnh rằng liên minh với Mỹ là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản.

"Tranh chấp với Trung Quốc là yếu tố khiến cho mối quan hệ với Mỹ trở nên quan trọng hơn", giáo sư chính sách công Fumiaki Kubo của trường Đại học Tokyo, bình luận.

Thanh Mai (lược dịch từ NYT

Nếu khai chiến khả năng Trung Quốc sẽ thua Việt Nam

Một số tờ báo của Hồng Công gần đây như “Đại công báo”, “Văn Hối”, “Đông phương” và nguyệt san “Phòng vệ Hán Hoà” dẫn lời các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh cho rằng tuy từ đầu năm 2009 đến nay, các bước chuẩn bị đấu tranh quân sự của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Hoa Nam) vô cùng rầm rộ. Thế nhưng trong bối cảnh hiện nay, còn rất nhiều rào cản khiến Trung Quốc chưa thể áp dụng hành động quân sự thực tế trong tranh chấp chủ quyền biển Đông. Các chuyên gia quân sự Trung Quốc cũng cảnh báo nếu Bắc Kinh Trung áp dụng hành động quân sự, cái giá phải trả sẽ rất đắt, thậm chí ảnh hưởng quốc tế tiêu cực của hành động này đối với Trung Quốc còn lớn hơn cả phát động một cuộc chiến tranh tại Eo biển Đài Loan. Dưới đây là tổng hợp nội dung cơ bản của các bài viết này.

1- Rào cản chính trị:

- Tại khu vực Biển Đông, hiện nay có ba nước tồn tại bất đồng lớn nhất với Trung Quốc về lãnh hải và hải đảo là Việt Nam, Philippin và Malaixia, trong đó Việt Nam là hàng đầu. Vì thế, khả năng bùng nổ xung đột quân sự tại khu vực biển Đông chỉ có thể là Trung Quốc tấn công quân sự chiếm các đảo, bãi mà Việt Nam đang kiểm soát tại quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọil à Nam Sa). Còn khả năng Trung Quốc và Malaixia nổ ra xung đột quân sự do tranh chấp đảo Layan Layan (đá Hoa Lau) trong tương lai gần, cơ bản bằng không. Thế nhưng, vấn đề quan trọng là Trung Quốc áp dụng hành động quân sự quy mô lớn với Việt Nam, thế tất sẽ thiêu huỷ hoàn toàn hình tượng quốc tế “hoà bình phát triển” mà Trung Quốc tạo dựng trong gần 20 năm qua. Hệ quả là sự cảnh giác của Ôxtrâylia, Mỹ, Nhật Bản và cả Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) đối với Trung Quốc sẽ tăng cao.

- Gần đây, hợp tác và trao đổi quân sự giữa Mỹ với ASEAN và Việt Nam đã có những bước tiến lớn, một khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, dư luận và báo chí chính thức của Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác sẽ đứng về phía Việt Nam. Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản thậm chí còn cung cấp cho Việt Nam chi viện về tình báo và hậu cần quân sự cho Việt Nam . Bên cạnh đó, “Học thuyết quân sự mới” của Ôxtrâylia cho rằng biển Đông chính là “biên cương lợi ích” của Ôxtrâylia sẽ có cớ phát triển.

- Một khi chiến tranh bùng nổ, sẽ thúc đẩy nhanh hơn sự thành lập chính thức của tập đoàn “NATO biển Đông”, bước đi Nam tiến của Lực lượng Tự vệ trên biển của Nhật Bản cũng sẽ trở thành hiện thực và tạo ra căn cứ hợp pháp để Mỹ can thiệp quân sự trực tiếp. Hơn thế, tại khu vực này, tồn tại “Hiệp ước đồng minh Mỹ – Xinhgapo – Ôxtrâylia” và từ sau năm 1995, Mỹ cùng với 6 nước ASEAN là Philippin, Thái Lan, Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia và Bruney tổ chức cuộc diễn tập quân sự hàng năm mang tên “Karat”, được mệnh danh là “Tập đoàn Karat” và trên thực tế đã trở thành quan hệ “chuẩn đồng minh”.

- Quần đảo Trường Sa hiện nay, có một số đảo nằm sát bờ biển Malaixia, có một số đảo gần đường trung tuyến Việt Nam – Malaixia, cách Trung Quốc xa như vậy, nói là của Trung Quốc thật khó có sức thuyết phục. Do vậy, khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, hình tượng quốc tế của các nước hữu quan, nhất là Việt Nam sẽ tốt hơn nhiều so với Trung Quốc, theo đó các nước lớn châu Âu, thậm chí cả Mỹ và Ấn Độ sẽ cùng đưa ra đề nghị cung cấp vũ khí cho Việt Nam, khiến cho nhân tố thiên thời và nhân hòa là bất lợi đối với Trung Quốc.

2- Rào cản về quân sự

- Các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh nêu rõ nhìn bề ngoài, so sánh sức mạnh quân sự giữa Trung Quốc với Việt Nam, phía Trung Quốc có vũ khí hiện đại mang tính áp đảo, nhất là ưu thế về số lượng và chất lượng tàu mặt nước, tàu ngầm cỡ lớn. Thế nhưng, phân tích sâu về học thuyết địa – quân sự, thực sự bùng nổ chiến tranh trên không và trên biển với Việt Nam, ưu thế sức mạnh quân sự không hẳn nghiêng về Trung Quốc. Bởi vì đặc điểm mới của chiến tranh kỹ thuật công nghệ cao với vũ khí tên lửa là không có khái niệm so sánh sức mạnh của nước mạnh, nước yếu. Theo đó, nước yếu có một số ít tên lửa hiện đại, trong chiến tranh trên biển và trên không, vẫn có thể dựa vào ưu thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa v.v.

- So sánh cụ thể hơn, về hải quân và không quân của Trung Quốc tham gia cuộc chiến tranh này sẽ chủ yếu là Hạm đội Nam Hải (Bộ Tư lệnh đặt tại Trạm Giang, Quảng Châu). Còn Việt Nam lực lượng không quân được trang máy bay chiến đấu “Su-30MKV” và “Su-27SK/UBK”. Hải quân Việt Nam được trang tàu tên lửa tốc độ cao “Molniya-12418” và tới đây có cả tàu ngầm “KILO-636”. Như vậy, xu thế so sánh sức mạnh tại biển Đông đang phát triển theo hướng bất lợi cho Trung Quốc.

- Trong tương lai gần, khi Hải quân Việt Nam đưa tàu ngầm “KILO- 636” vào sử dụng, quyền kiểm soát cục bộ dưới nước có thể sẽ nghiêng về phía Hải quân Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc phải tính đến nhân tố máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của không quân Việt Nam có thể sẽ được trang bị tên lửa siêu âm không đối hạm “BRAHMOS” (của Ấn Độ) và “YAKHONT” (của Nga) với tầm bắn đạt 300km.

- Về năng lực phòng không, Trung Quốc và Việt Nam đều được trang bị tên lửa đất đối không hiện đại “S-300PMU1”. Lực lượng phòng không của Việt Nam có 2 tiểu đoàn, còn con số này của Trung Quốc là 20. Thế nhưng, lực lượng này (của Trung Quốc) chủ yếu bố trí trên đất liền, do vậy vai trò có thể phát huy trong chiến tranh trên biển và không phận trên biển khá hạn chế.

3- Rào cản về địa lý

- Toàn bộ 29 đảo, bãi mà Việt Nam kiểm soát hiện nay tại Trường Sa, cách đất liền từ 400 – 600 km. Tại khu vực này, Việt Nam có các căn cứ không quân tại vịnh Cam Ranh (Nha Trang), Đà Lạt (Lâm Đồng) và ở Thành phố Hồ Chí Minh, đa số không phận tại khu vực tranh chấp này đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay tấn công “Su-22” của không quân Việt Nam, chưa kể đến máy bay chiến đấu “Su-30MKV” và “Su-27SK” với bán kính tác chiến lên đến 1.500 km. Từ đó cho thấy cả Trung Quốc và Việt Nam đều có đủ năng lực tấn công tầm xa đối với các căn cứ hải quân tung tâm của đối phương.

- Việt Nam đã xây dựng sân bay tại đảo Trường Sa. Nếu so sánh, không quân Trung Quốc kể cả cất cánh từ sân bay tại đảo Hải Nam, khoảng cách đường thẳng đối với 29 đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát đã lên đến từ 1.200 – 1.300 km, còn cất cánh từ khu vực quần đảo Hoàng Sa, khoảng cách đến Trường Sa cũng lên đến từ 900 – 1.000 km… Điều này buộc máy bay chiến đấu “J-10” và “J-8D” và cả “Su-30MKK” và “Su-27SK” của Không quân Trung Quốc đều cần được tiếp dầu trên không mới có thể tham chiến. Tuy vậy, thời gian tác chiến trên vùng trời biển Đông so với máy bay chiến đấu cùng loại của không quân Việt Nam cũng ngắn hơn khoảng 50%.

- Khi chiến tranh bùng nổ, sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Hoàng Sa) và thậm chí cả sân bay trên đảo Hải Nam của không quân Trung Quốc nhiều khả năng trước tiên sẽ bị máy bay chiến đấu “Su-22” của không quân Việt Nam thực hiện tấn công phủ đầu. Căn cứ Toại Khê, Căn cứ Quế Lâm (Quảng Tây) của Sư đoàn không quân số 2 cũng nằm trong phạm vi bán kính tác chiến tấn công của máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của Không quân Việt Nam. Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác là xung đột không chỉ hạn chế ở khu vực biển Đông, toàn bộ các mục tiêu chiến lược tại đảo Hải Nam, Hồng Kông, Côn Minh (Vân Nam) và Nam Ninh (Quảng Tây) đều nằm trong phạm vi bán kính tác chiến của máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của Không quân Việt Nam.

- Địa hình lãnh thổ của Việt Nam dài hẹp, máy bay “Su-27SK” và “J-10A” của Trung Quốc, sau khi tham chiến, trên đường bay trở về căn cứ tại đảo Hải Nam hay căn cứ Toại Khê, Quế Lâm (Quảng Tây), đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay chiến đấu “MiG-21Bis” của Không quân Việt Nam cất cánh từ các căn cứ không quân miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Do vậy, MiG-21Bis của Việt Nam có thể cất cánh đánh chặn máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã hết vũ khí và thiếu nhiên liệu vào bất cứ lúc nào.

4- Rào cản về chiến thuật

- Máy bay chiến đấu “Su-22” của không quân Việt Nam có thể sẽ áp dụng chiến thuật không kích siêu thấp và có được sự yểm hộ hoả lực trong tấn công đảo, bãi. Vì thế, ngay cả khi Trung Quốc chiếm lĩnh được các đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát hiện nay, bảo vệ lâu dài là vấn đề cực kỳ khó khăn. Ngoài ra, Không quân Việt Nam áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp, sẽ tránh được sự theo dõi của các loại rada trên tàu mặt nước của Trung Quốc và trực tiếp tấn công các tàu mặt nước cỡ lớn của hải quân Trung Quốc.

- Hải quân Việt Nam không có tàu mặt nước cỡ lớn, cho nên không ngại Trung Quốc áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp. Hơn thế, như vậy còn khiến cho tàu ngầm hiện đại của Trung Quốc không thể phát huy sức mạnh, chỉ có thể tấn công tàu vận tải của hải quân Việt Nam.

Nhưng phán đoán từ loại tàu đổ bộ từ đất liền tiến ra đảo, bãi quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện nay, đa số là tàu vận tải cỡ nhỏ lớp từ 300 – 500 tấn trở xuống, hơn thế phần nhiều là được đóng bằng gỗ, cho nên điều động tàu ngầm hiện đại để tiêu diệt là không cần thiết

Vợ

Vợ là mẹ các con ta
Thường kêu bà xã, hiệu là phu nhân
Vợ là tổng hợp : "bạn thân
thủ trưởng, bảo mẫu, tình nhân, mẹ hiền…"
Vợ là ngân khố, kho tiền
Gửi vô nhanh gọn, hơi phiền rút ra
Vợ là biển cả bao la
Đôi khi nổi sóng khiến ta chìm phà
Vợ là âm nhạc, thi ca
Vừa là cô giáo, vừa là luật sư
Cả gan đấu khẩu vợ ư ?
Cá ươn không muối, chồng hư cãi lời
Chồng ơi! đừng có dại khờ
Không vợ đố biết cậy nhờ tay ai
Vợ là phước, lộc, thọ, tài...
Thuộc trăm định nghĩa, trả bài vợ khen!

Công bằng tạo nên “cái chất” nhân sự

Cập nhật lúc: 8/12/2010 5:44:30 PM (GMT+7)

Nhiều công ty có tầm cỡ đang hoạt động trong nước cho biết họ không thiếu và tương đối không có vấn đề gì lớn phải giải quyết trong việc sử dụng lao động cấp thấp. Tuy nhiên, họ lại thường có vấn đề với nhân sự trung và cao cấp mà họ rất cần. Tại sao lại như vậy?


Đây cũng là vấn đề nóng hổi đã được nhiều doanh nghiệp quan tâm và đặt lên bàn hội nghị về chiến lược quản lý nhân sự hôm 10/8 vừa qua do báo VietNamNet và VNR500 tổ chức. Với góc độ là một nhà quản trị doanh nghiệp, ông Trần Sĩ Chương, Chủ tịch HĐQT công ty ABBO, đã đưa ra một kiến giải về vấn đề này. VNR500 trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc nội dung bài viết.

Nghịch lý từ việc đoàn kết

Trước tiên, dễ thấy nhất là vì Việt Nam mới phát triển, cơ hội đào tạo còn giới hạn, không đủ để theo kịp nhu cầu của đất nước trong hơn thập niên vừa qua. Nhưng đấy chỉ là câu trả lời có thể tạm chấp nhận được về mặt lượng.

Nhiều người nước ngoài khi làm việc với người Việt thường có nhận xét rằng, “một cá nhân người Việt thì có thể hơn một người khác, nhưng ba người Việt ngồi lại thì… lại có vấn đề!”.

Từ hơn 10 năm qua, giới trẻ trong nước đã có nhiều cơ hội học hỏi nhiều hơn so với các thế hệ đàn anh của họ trong những thập niên trước đó. Trong nước, nhiều dịch vụ đào tạo chuyên môn tay nghề, khả năng quản lý... đã phát triển nhanh và đang hoạt động mạnh. Số lượng sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng trong nước ở mức kỷ lục, chưa từng có.

Tuy chất lượng chưa được đồng nhất nhưng hầu như ai có ý chí muốn học gì cũng có thể học được. Mỗi năm hàng ngàn sinh viên, học sinh có thành tích học vấn tốt được cấp học bổng du học ở các nước phát triển. Hàng ngàn người khác đi du học tự túc. Số lượng sinh viên Việt Nam được đào tạo từ nước ngoài không phải là ít.

Một số lượng lớn những sinh viên tốt nghiệp đã về nước làm việc trong nhiều ngành nghề, công cũng như tư. Sinh viên Việt Nam đi đâu cũng được tiếng là hiếu học, học giỏi. Vậy thì tại sao chất lượng nhân sự vẫn còn thiếu trong nước? Thiếu cái gì? Ta hãy nghe những nhận xét của một số chủ doanh nghiệp về thực trạng này:

“Tinh thần trách nhiệm kém”, “Thiếu sự gắn bó, thiếu trung thành với công việc”, “Thiếu tinh thần đồng đội, không biết hỗ trợ lẫn nhau”, “Làm được ít mà đòi hỏi nhiều”, “Không có tinh thần làm việc theo hệ thống”, “Chỉ biết việc mình đang làm mà không biết dự tính hiệu quả tổng thể có liên hệ đến người khác, thiếu chủ động trong công việc”...

Vậy thì câu hỏi có lẽ phải là: “Tại sao nhân sự trong nước lại thiếu chất?”.

Trong tất cả các cái “thiếu” có lẽ cái thiếu tinh thần đồng đội là quan trọng hơn cả. Có đoàn kết mới có đại thành công. Đây không phải chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch mà thật sự có giá trị cụ thể cho mọi việc, mọi nơi. Có đoàn kết mới có tinh thần trách nhiệm chung, chủ động gắn bó với công việc cho mục đích chung, cái mạnh của người này được bù cho cái yếu của người khác.

Nhiều nhà quan sát lịch sử Việt Nam cho rằng đây là một nghịch lý đáng ngạc nhiên. Dân tộc Việt Nam khi cần đã chứng minh được một khả năng đoàn kết cao độ trong các cuộc kháng chiến giành độc lập cực kỳ khó khăn, gian khổ.

Vậy mà từ người Pháp trước đây, rồi người Mỹ và nhiều người ngoại quốc khác sau này khi có cơ hội làm việc, tiếp xúc với người Việt lại có nhận xét mà chúng ta cũng đã thường nghe rằng “một cá nhân người Việt thì có thể hơn một người khác nhưng ba người Việt ngồi lại thì… lại có vấn đề!”.

Sức mạnh của yếu tố công bằng

Theo các nhà xã hội học dựa vào thuyết “con người là sản phẩm của môi trường sống” thì hiện tượng này là do sự bất ổn định của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Khi sống trong một xã hội có truyền thống bất ổn định thì con người với bản chất sinh tồn bẩm sinh sẽ có khuynh hướng muốn hành động tự phát, thiếu lòng tin vào tập thể, vào tương lai.

Điều kiện “công bằng” có khả năng tạo nên cái “chất” quyết định được mức độ đóng góp của con người.

Từ đó không muốn đầu tư vào những cam kết, đầu tư và gắn bó xã hội có tính lâu dài thậm chí có khi còn “đạp lên nhau để sống”. Xã hội nào có tinh thần tự trọng và tương kính cao thì có tính đoàn kết cao. Dân tộc Nhật Bản đạt được những thành công như ngày hôm nay là nhờ ở những đức tính ấy và nhờ vào hoàn cảnh lịch sử của họ.

Mặc dù cá nhân người dân Nhật không được tiếng học giỏi, lanh lợi như người Ấn, người Hoa hay so với người Việt chúng ta. Ngoài điều kiện không thay đổi được là điều kiện lịch sử thì điều kiện công bằng trong xã hội nói chung hay trong một tập thể nhỏ nói riêng là một yếu tố quyết định có thể thay đổi được, để mọi cá nhân có lòng tin là sự đóng góp của mình sẽ được ghi nhận một cách sòng phẳng và được đền bù xứng đáng về mặt vật chất lẫn tinh thần.

Từ đó họ mới tin vào ý nghĩa của sự đoàn kết, đem lại cái tổng giá trị lớn hơn từng giá trị của cá nhân đứng riêng lẻ cộng lại và cá nhân họ “được” nhiều hơn là nếu chỉ nghĩ đến mình. Con người bất cứ ở đâu, nếu sống trong một điều kiện xã hội còn nhiều bất công thì sẽ khó sống trung thực. Từ đó sự tự trọng, tương kính cũng sẽ không có.

Con người có thể học thành tài nhưng chưa hẳn đã thành nhân với bằng cấp. Trong một nghĩa hẹp, thành nhân đòi hỏi điều kiện biết sống hài hòa với những người chung quanh và có cái tâm đóng góp hữu ích cho xã hội. Ở các nước chậm tiến hoặc đang phát triển thì cái bệnh đòi “ăn trên ngồi tróc” là một căn bệnh trầm trọng.

Với mức độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, điều kiện phát triển con người còn giới hạn thì chắc chắn một thiểu số sẽ có nhiều điều kiện, cơ may thăng tiến hơn hẳn đa số còn lại kém may mắn hơn họ. Thiểu số này trở thành một tầng lớp có đặc quyền và từ đó họ nghĩ rằng mình xứng đáng đòi hỏi đặc lợi. Nếu như vậy họ có thể sẽ không đóng góp được gì tích cực mà còn có khả năng trở thành một gánh nặng tiêu cực lớn cho xã hội.

Người Ấn Độ nổi tiếng thông minh, học giỏi. Từ khi lập quốc, nội các của Chính phủ Ấn thường có đầy các tiến sĩ tốt nghiệp từ các đại học nổi tiếng nhất thế giới (Cambridge, Oxford, MIT, Harvard...). Vậy mà họ lại không đóng góp được bao nhiêu cho sự phát triển của đất nước. Cũng những con người đó nhưng khi ở nước ngoài thì lại thành công vượt bậc, từ giáo dục, kinh tế đến kỹ thuật, thương mại...

Trong xã hội Mỹ, cá nhân chủ nghĩa, tinh thần cầu lợi có lẽ cao hơn bất cứ xã hội nào khác. Nhưng họ may mắn có được một cơ chế xã hội mà đa số tin là công bằng. Câu phản biện đầu môi, hữu hiệu nhất của một người Mỹ (ngay cả những đứa trẻ con) đối với người khác khi tranh luận một vấn đề là vịn vào cái lý lẽ “That’s not fair!” (Thế là không công bằng đâu nhé!).

Với lòng tin vào sức mạnh của sự công bằng như vậy, họ mạnh dạn đóng góp tối đa vì họ tin vào tính cộng hưởng của sự đoàn kết, hợp tác, để từ đó phần lợi của họ được nhiều hơn.

Một số công ty nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam như Unilever, Pepsi và một số doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin, ngân hàng, tài chính đã đặc biệt thành công trong việc đào tạo, sử dụng nhân sự, chủ yếu là vì họ có quyết tâm và cũng thành công trong việc tổ chức được một cơ chế làm việc công bằng, thưởng phạt công minh, dựa trên căn bản giá trị đóng góp thực sự - dù cá nhân đóng góp trực tiếp (làm bàn) hay gián tiếp (hỗ trợ, đưa bóng cho người khác làm bàn).

Ở những công ty này người lãnh đạo ý thức được trách nhiệm quan trọng nhất là phát triển tối đa tiềm lực của mỗi con người trong công ty họ. Sau một thời gian làm việc, người nhân viên được thuyết phục bởi giá trị của sự công bằng và sẽ tự họ tạo được cái “nếp” làm việc chuẩn, hướng về mục tiêu chung của tập thể.

Vĩ thanh

Như vậy, điều kiện “công bằng” có khả năng tạo nên cái “chất” quyết định được mức độ đóng góp của con người. Đó cũng là điều kiện phải được đa số chấp nhận một cách chính thống.

Từ đó, cái tâm muốn làm việc tốt bẩm sinh của con người sẽ được giải phóng và phát triển để cộng với cái tài của mỗi cá nhân thì chúng ta vừa có được cái lượng (điều kiện cần) và cái chất (điều kiện đủ) đáp ứng tốt nhu cầu phát triển của xã hội.

Thứ Tư, 11 tháng 8, 2010

Bình luận về chuyến thăm của tàu chiến Mỹ

Thượng Nghị sỹ John McCain nói chuyến thăm của khu trục hạm mang tên cha ông tới Việt Nam là tín hiệu "lịch sử và đầy hy vọng" cho quan hệ giữa hai nước cựu thù. Trong khi đó báo Trung Quốc lên tiếng cảnh báo các nước láng giềng đang có ý định xích lại gần Mỹ.

Ông McCain ra thông cáo nhân việc tàu John S. McCain cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng: "Chuyến thăm của khu trục hạm USS John McCain tới Việt Nam là một sự kiện mang tính lịch sử và đầy hy vọng".

"Việt Nam đang trở thành một trong các đối tác quan trọng và hứa hẹn nhất của nước Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương."

Thượng Nghị sỹ Cộng hòa từng thua cuộc trước ông Barack Obama trong cuộc bầu cử 2008 từng phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ thời kỳ chiến tranh Việt Nam.

Ông cũng từng phải ngồi tù ở Bắc Việt Nam tới sáu năm và được trả tự do năm 1973.

Khu trục hạm John S. McCain với thủy thủ đoàn 270 người tới Đà Nẵng trong bối cảnh tình hình Biển Đông đang gia tăng căng thẳng.

Ông McCain viết trong thông cáo: "Chuyến thăm hôm nay mang ý nghĩa lịch sử to lớn, đặc biệt đối với tôi và gia đình tôi. Thế nhưng tầm quan trọng thực sự của chuyến thăm này cần được đánh giá bằng tín hiệu mà nó đưa ra về tương lai quan hệ Việt-Mỹ".

"Mối quan hệ này đã tiến một bước dài, nhưng tiềm năng mới thật là to lớn. Và tôi tin tưởng rằng dần dần hai quốc gia chúng ta cùng với nhau sẽ đóng góp cho an ninh, sự phồn thịnh; và một ngày nào đó, cho sự tự do của tất cả các nước và các dân tộc Đông Nam Á."

Cái giá phải trả

Bất cứ ý đồ nào muốn đối chọi Trung Quốc bằng cách dựa vào ngoại giao và quân sự Mỹ đều sẽ phải trả giá bằng kinh tế.

Trong khi đó, truyền thông Trung Quốc lên tiếng cảnh báo về 'cái giá phải trả' về mặt kinh tế khi các nước láng giềng ngả về phía Mỹ.

Tờ Hoàn Cầu Thời báo, một tờ báo đối ngoại bằng tiếng Anh của nhà nước Trung Quốc xuất bản tại Bắc Kinh, nhận định rằng "ý định của Hoa Kỳ thật đã rõ ràng: khuấy động tâm lý chống Trung Quốc tại các nước trong khu vực".

Tờ này chỉ ra động thái gây quan ngại là mới đây Mỹ-Việt đã thảo luận hiệp ước về năng lượng hạt nhân, trong đó có thể cho phép Việt Nam làm giàu uranium, bước quan trọng tiến tới sản xuất vũ khí nguyên tử.

"Mỹ đang tìm cách củng cố ảnh hưởng rải rác khắp nơi trong khu vực. Trong chừng mực nào đó, Mỹ có thể làm như vậy."

Hoàn Cầu Thời báo cho rằng Mỹ đang lợi dụng việc các nước láng giềng của Trung Quốc e dè trước sự lớn mạnh của Bắc Kinh.

Theo báo Trung Quốc, "ngay sau khi Mỹ tuyên bố rằng Biển Đông nằm trong mối quan tâm quốc gia của mình, Việt Nam bắt đầu tăng cường phản đối các hoạt động hợp pháp của Trung Quốc" ở đây.

Câu hỏi đặt ra là: liệu liên minh Mỹ-Việt có đơm hoa kết trái hay không?

Câu trả lời là: "khó có khả năng, vì nó cũng giống như liên minh chết yểu giữa Liên Xô và Việt Nam những năm 1970".

Tờ Hoàn Cầu chỉ ra rằng tổ chức Hiệp ước Phòng thủ Tập thể Đông Nam Á mà Mỹ khởi xướng thời kỳ Chiến tranh Lạnh nhằm đối chọi với Trung Quốc đã phải giải tán năm 1976 vì bất đồng nội bộ và chính sách không nhất quán.

Trong khi đó, "quyền lực kinh tế của Trung Quốc đã mang lợi ích lại cho các nức nhỏ hơn trong khu vực và lập nên mô hình phát triển để các nước này noi theo".

Trung Quốc là cường quốc trung tâm, có ảnh hưởng văn hóa và sản xuất tiên tiến.

Báo Trung Quốc khẳng định: "Bất cứ ý đồ nào muốn đối chọi Trung Quốc bằng cách dựa vào ngoại giao và quân sự Mỹ đều sẽ phải trả giá bằng kinh tế".

"Các nước trong khu vực phải nhìn thấy điều này."

Tờ báo khuyến khích Bắc Kinh tiếp tục giành ảnh hưởng thông qua việc cấp viện kinh tế và ổn định khu vực, nhất là tăng quan hệ với các nước không có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.

Không ai được mặc cả lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông

Tác giả: Phương Loan (ghi)

Bài đã được xuất bản trên Vietnamnet

Dù đa phương hay quốc tế, Việt Nam không có mục đích gì khác là giúp quốc tế hiểu đúng và rõ hơn vấn đề tại Biển Đông. Việc đa phương hay quốc tế không có nghĩa Việt Nam quay mặt lại với Trung Quốc, mà luôn nỗ lực đảm bảo và phát triển mối quan hệ song phương Việt - Trung. - TS Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện khoa học Chiến lược Bộ Công an phân tích.

Biển Đông nổi sóng dư luận

TS Lê Văn Cương: Ngày 23/7, tại Diễn đàn ARF, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã gửi đến cộng đồng 27 quốc gia thành viên bao gồm 10 nước ASEAN và 17 đối tác đối thoại. Theo đó, có 3 thông điệp lần đầu tiên Mỹ chính thức tuyên bố rõ ràng với thế giới. Một là, Mỹ coi cuộc tranh chấp chủ quyền của các quốc gia trên Biển Đông liên quan đến lợi ích quốc gia của Mỹ.

Hai là, Mỹ tuyên bố rõ tranh chấp theo quan điểm của Hoa Kỳ là cần và có thể giải quyết bằng thương lượng hòa bình, song phương và đa phương. Các bên cần ngồi lại với nhau, trên cơ sở luật pháp quốc tế hiện có để tìm giải pháp và bất kì giải pháp nào đưa ra cũng phải tính đến lợi ích của các bên liên quan. Không có bên nào được độc chiếm lợi ích ở Biển Đông. Mỹ cũng phải đối các bên sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông.

Ba là, Mỹ yêu cầu phải đảm bảo lưu thông hàng hải, cả dân sự và quân sự trên vùng biển quốc tế tại khu vực Biển Đông. Bất kì tranh chấp nào cũng không được ngăn cản quyền tự do hàng hải của các quốc gia.

Câu hỏi đặt ra là, ba thông điệp của Mỹ có đúng và hợp lý? Phải khẳng định, yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình hoàn toàn phù hợp với Hiến chương LHQ, với cam kết xây dựng một khu vực hòa bình theo tinh thần Hiến chương ASEAN, đúng với Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông, và với xu thế hòa bình, ổn định trên thế giới này. Vì thế, không ngẫu nhiên khi các nước hưởng ứng thông điệp này.

Yêu cầu về đảm bảo lưu thông hàng hải trên biển của Mỹ cũng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật quốc tế, cụ thể là UNCLOS đã quy định cụ thể vấn đề này. Đó là luật chung của thế giới, không có cớ nào để không áp dụng ở Biển Đông.
Như vậy, về mặt khoa học, tuyên bố của Mỹ phù hợp với pháp lý quốc tế, xu thế quốc tế, và nguyện vọng chính đáng của đa số các nước có liên quan. Vì thế, tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ đã tạo nên chấn động lớn. Các nước nói hay không nói thì trong thâm tâm đều ủng hộ.

Nước phản đối gay gắt với phát biểu đó của Mỹ là Trung Quốc. Ba ngày sau tuyên bố, ngày 26/7, tờ Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc có bài xã hội: "Mỹ hi vọng kìm chế một Trung Quốc với các khả năng quân sự ngày càng gia tăng". Qua bài viết, Trung Quốc gửi thông điệp mạnh mẽ, cho rằng, tuyên bố của bà Clinton là một tuyên ngôn tấn công trực diện nhằm bao vây Trung Quốc. Tờ Global Times - Thời báo Hoàn cầu thì viết, Trung Quốc không bao giờ từ bỏ quyền bảo vệ "lợi ích cốt lõi" của mình ở Biển Đông, kể cả sử dụng phương tiện quân sự.

Rõ ràng, mâu thuẫn về phương pháp, cách nhìn đã xuất hiện trong việc giải quyết vấn đề biển Đông. Và ta cũng không nên lảng tránh một sự thật, rằng dư luận thế giới ủng hộ quan điểm của Mỹ hơn.

Vấn đề Biển Đông gây xôn xao, thậm chí nóng lên sau ARF là hiểu được, không có gì bất ngờ. Tuy nhiên, không vì thế mà sẽ dẫn đến xung đột nóng trên Biển Đông. Ai phát động việc sử dụng quân sự trên Biển Đông, người đó tự rước thảm họa vào mình.

Thực ra, Biển Đông làm nổi sóng dư luận là chính. Đó là sự cọ xát về quan điểm, mâu thuẫn về lợi ích, giữa các nước tranh chấp trực tiếp, và cả những nước trong và ngoài khu vực và có mối quan tâm. Ngay cả Trung Quốc và Mỹ có vẻ căng thẳng trong tuyên bố là thế, nhưng không vì thế mà hai nước sẽ làm đổ vỡ quan hệ. Đó chủ yếu là sự nắn gân, hù dọa lẫn nhau giữa các nước lớn mà thôi. Cán cân lợi ích không cho phép việc đổ vỡ quan hệ xảy ra.

Vấn đề quốc tế, không phải công việc nội bộ của Trung Quốc

Hơn một tuần qua, nhiều bài viết của các học giả Trung Quốc xuất hiện, nhằm nhắc nhở, khuyến cáo, vỗ về và cảnh báo các nước ASEAN: không quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, và nhắc các nước cẩn thận, kéo Mỹ vào là lợi bất cập hại. Trung Quốc cho rằng nên xử lý ở cấp độ song phương, gói gọn vấn đề trong quan hệ Trung Quốc - ASEAN, ngăn sự tham gia của bên thứ 3 (ám chỉ Mỹ).

Những phát biểu trên là dễ hiểu, dựa trên lập trường của Trung Quốc, rằng Biển Đông là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, ngang hàng với các vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương. Thực tế, trên thế giới, không ai chấp nhận quan điểm này của Trung Quốc.

Tây Tạng, Tân Cương là những vấn đề nội bộ của Trung Quốc. Việt Nam hoàn toàn ủng hộ việc Trung Quốc toàn quyền xử lý. Việt Nam cũng ủng hộ chính sách một Trung Quốc, nói và hành xử đúng như vậy với Đài Loan.

Thế nhưng, Biển Đông không phải là vấn đề nội bộ của Trung Quốc, mà là vấn đề khu vực và quốc tế. Trung Quốc không có căn cứ nào để nói Biển Đông là vấn đề của riêng mình. Xếp Biển Đông ngang hàng với các vấn đề Tây Tạng, Tân Cương cũng vô căn cứ như chính tuyên bố về đường ranh giới 9 đoạn cắt khúc chữ U của Trung Quốc trên Biển Đông vậy.

Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 đâu chỉ dành cho khu vực Biển Đông mà được áp dụng với mọi quốc gia trên thế giới. Các nước đều tuân thủ và hưởng lợi từ luật pháp quốc tế này.

28 năm qua, tất cả các tranh chấp quốc tế về biển đều dựa trên UNCLOS để xử lý, không cớ gì Biển Đông lại là ngoại lệ.
Theo UNCLOS, mỗi quốc gia được sở hữu vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Điều đó là hiển nhiên và không phải bàn cãi. Đó là mảnh đất đã được quốc tế cấp sổ đỏ, không một cá nhân, một quốc gia nào có thể xâm phạm. Không ai xâm phạm quyền của Trung Quốc và Trung Quốc cũng không có quyền xâm phạm quyền của Việt Nam và các nước khác.

Xếp Biển Đông vào vấn đề mang tính "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc đã va chạm mạnh với khu vực, với Mỹ và các cường quốc khác. Điều này đi ngược lại tuyên ngôn "trỗi dậy hòa bình" mà chính Trung Quốc đã cố quảng bá nhiều năm qua. Nó cũng trái với điều các lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố, về 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, trái với Hiến chương LHQ, với DOC.

Tuân thủ DOC, Biển Đông sẽ không nổi sóng

Dù tình hình Biển Đông có vẻ phức tạp, và là vấn đề phức tạp nhất, nóng bỏng nhất trong các tranh chấp biển trên thế giới, nhưng không phải không có lối thoát. Nếu các bên đều kiềm chế, tôn trọng DOC, chắc chắn Biển Đông không bao giờ nổi sóng. Một khi Biển Đông nổi sóng, không ai là người có lợi. Nước nào cố tình gây sự, tham bát bỏ mâm, dùng quân sự độc chiếm Biển Đông, họ sẽ tự hại mình.

Không giống như UNCLOS, Tuyên bố về Ứng xử trên Biển Đông DOC không có tính ràng buộc pháp lý cao, thế nhưng, nó lại là tuyên ngôn chính trị chính thống của 11 quốc gia đã kí kết. Đó là tuyên ngôn của 11 nước với nhau và với thế giới. Dù tình hình phức tạp, không nước nào có quyền và có gan để từ bỏ DOC, bởi rút ra khỏi DOC có nghĩa là nước đó sẽ tự cô lập mình, chịu thiệt cả về chính trị, an ninh và quốc phòng. Một khi đi quay mặt với tuyên bố chính trị của mình, thế giới có ai tin được nước đó, nhất là với một nước đang trỗi dậy.

Việc tập trận trên Biển Đông, phát biểu này khác dù cứng rắn cũng chỉ là cách Trung Quốc gửi thông điệp tới Mỹ rằng không phải việc của Mỹ tại Biển Đông, và răn đe ASEAN. Thế nhưng, từ thông điệp đến hành động quân sự, Trung Quốc sẽ còn phải cân nhắc nhiều. Nếu có hành động quân sự trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ tự tay xé DOC, đồng nghĩa với việc lột mặt nạ với thế giới. Tuyên bố "trỗi dậy hòa bình" sẽ không còn giá trị.

Không ai có quyền mặc cả về lợi ích quốc gia

Về phần Việt Nam, trong tình hình có vẻ phức tạp hiện nay, cần hết sức tỉnh táo và sáng suốt. Một mặt, Việt Nam cần tiếp tục củng cố quan hệ với Trung Quốc, nước lớn, láng giềng. Phát triển một quan hệ tốt với Trung Quốc có lợi cho Việt Nam, khu vực và cả thế giới. Đó cũng là điều mà Chính phủ Việt Nam theo đuổi hiện nay.

Tuy nhiên, tiếp tục phát triển quan hệ Việt - Trung không đồng nghĩa với việc Việt Nam từ bỏ lợi ích quốc gia của mình tại Biển Đông hay trong bất kì vấn đề gì khác. Việt Nam không bao giờ vì 16 chữ hay 4 tốt mà từ bỏ lợi ích dân tộc mình. Không ai có quyền mặc cả với bất kì người nào, nước nào về chủ quyền với "mảnh đất đã được quốc tế cấp sổ đỏ" cho Việt Nam ở Biển Đông. Việt Nam cần tạo nhận thức thống nhất, không mơ hồ trong vấn đề này.

Việt Nam coi trọng Trung Quốc, coi trọng mối quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai với Trung Quốc nhưng nó không có nghĩa Việt Nam từ bỏ chủ quyền quốc gia.

Cũng phải nói cho rõ, Việt Nam không kéo Mỹ hay bất kì nước nào khác vào giải quyết vấn đề Biển Đông. Việt Nam chỉ ủng hộ những quan điểm phù hợp với luật pháp quốc tế và xu thế thời đại.

Việc một số báo chí Trung Quốc nói Việt Nam lôi kéo Mỹ chỉ là sự vu cáo vô lý. Việt Nam không chủ trương phe cánh, hay dựa vào ai để giữ Biển Đông, mà dựa trên luật pháp quốc tế.

Chúng ta cũng không thể đặt vấn đề Biển Đông theo hướng ASEAN một bên và bên kia là Trung Quốc, tạo sự căng thẳng không cần thiết.

Việt Nam tôn trọng và quyết tâm giải quyết vấn đề Biển Đông bằng con đường hòa bình, cả song phương, đa phương, linh hoạt theo từng vấn đề, thời điểm, trên cơ sở luật pháp quốc tế và 5 nguyên tắc chung sống hòa bình. Việt Nam chủ trương giải quyết song phương, tận dụng đa phương và quốc tế.

Dù đa phương hay quốc tế, Việt Nam không có mục đích gì khác là giúp quốc tế hiểu đúng và rõ hơn vấn đề tại Biển Đông. Việc đa phương hay quốc tế không có nghĩa Việt Nam quay mặt lại với Trung Quốc, mà luôn nỗ lực đảm bảo và phát triển mối quan hệ song phương Việt - Trung. Đó là chính sách trước sau như một của Việt Nam, không bao giờ lôi kéo một nước thứ ba chống lại Trung Quốc. Và việc bảo vệ lợi ích dân tộc, không gian sinh tồn của dân tộc này ở Biển Đông cũng là chính sách trước sau như một, Việt Nam quyết làm bằng được.

Củng cố quan hệ song phương với Trung Quốc, đặt thẳng vấn đề Biển Đông để xử lý, Việt Nam cũng có quyền và cần chủ động giải quyết vấn đề Biển Đông song phương với các nước có liên quan. Trao đổi với các nước ASEAN, với Mỹ hay nước nào quan tâm, chia sẻ quan điểm giải quyết vấn đề hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế... là quyền và lợi ích của Việt Nam. Đó là các kênh tiếp cận khác nhau, là các bước đi nhỏ để trên cơ sở tôn trọng và nhân nhượng lẫn nhau, tiến tới tạo nên bước đi lớn, tìm giải pháp đảm bảo lợi ích công bằng ở Biển Đông.

Việt Nam cần làm điều này một cách minh bạch, công khai và dựa trên luật pháp quốc tế.

Đồng thời, cần làm cho người dân hiểu và hiểu đúng về vấn đề trên Biển Đông và quan hệ với các nước, từ đó tạo sự đồng thuận và quyết tâm, tạo sức mạnh bảo vệ chủ quyền dân tộc. Không kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thế nhưng, Việt Nam cần nói cho dân biết, cần nói đúng, nói thẳng và nói rõ cho dân, không mơ hồ. Những thông tin đưa ra phải trung thực, tôn trọng lịch sử, không xuyên tạc, bóp méo lịch sử, không để tình cảm yêu ghét can thiệp vào những thông tin mang tính khoa học để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trong công cuộc đó, báo chí phải góp sức nhiều hơn nữa.